abstract
| - Trên trời, từng đám mây mỏng dính vất vưởng khắp nơi, mỗi khi gió thổi qua lại lay động lặng lẽ tựa như những một màn sương trắng xóa. Thế nhưng, chừng đó thôi cũng đủ để khỏa lấp cả ánh mặt trời. Xuân vẫn còn xa, mặt đất chỉ còn biết điềm tĩnh ráng chờ cho cái lạnh của mùa đông qua đi. Tuyết chôn vùi cả đồi núi lẫn ruộng đồng, hoa lá nằm trong băng giá, tới cả mặt sông cũng bị một lớp băng phủ lên. Nice – Kinh thành của Vương quốc Brune. Ở chính giữa nơi này sừng sững ngọn núi Luberon, như bao nơi khác, lúc này đang lặng lẽ đứng im mà chìm trong cái lạnh. Tương truyền vị Vua Lập quốc, Vua Charles, đã gặp được 1 thiên thần do thánh thần cử xuống ở chính ngọn núi này, cũng như được trao cho thanh bảo kiếm Durandal và con ngựa thần Bayard. Bayard là một con ngựa mình đỏ bờm đen, có thể chạy một mạch suốt một ngày dài ở nơi đồng không mông quạnh mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Durandal thì chặt sắt như bùn, lại còn có thể hóa giả được đủ loại nguyền rủa kỳ quái. Nghe nói thanh kiếm còn có thể chém được cả rồng, thần cũng như cả ma quỷ. Charles, với thanh Durandal vác trên vai, ngồi trên lưng chiến mã Bayard, đã cùng nhau chinh chiến trong rất trận đánh. Với vô số chiến công trong tay, ông ta đã lập nên Vương quốc Brune. Để tỏ lòng biết ơn với thánh thần, Charles đã cho xây 1 ngôi đền thờ ở trên đỉnh núi Luberon. Kể từ đó, ngôi đền dưới sự quản thúc của hơn chục thầy tu đã trải qua biết bao năm tháng yên bình. Giờ đây, 3 người, có cả nam lẫn nữ, đang tới thăm ngôi đền. 1 cô gái trẻ mặc đồ lụa trắng trên thân hình mảnh mai của mình, khoác thêm 1 tấm áo choàng, theo sau là 2 người, 1 nam 1 nữ. Sau khi chào hỏi vị giám mục của ngôi đền xong, nhóm người tiu nghỉu rời đi, trông họ không có gì là muốn trò chuyện vui vẻ hết. Lúc này không phải họ muốn đi vào, mà là ra ngoài đền. “Trời mùa đông năm nay rét ghê. Hay là ngài nán lại đây mà sưởi ấm 1 lát? Tôi sẽ cho chuẩn bị rượu ngay.” Trước lời mới của viên giám mục, cô gái trẻ chỉ cảm ơn mà từ chối. Trong khi 2 bên đang nói chuyện, những ngọn gió vẫn tiếp tục vần vũ trên đỉnh núi, lạnh buốt như thể cắt da cắt thịt. Cô gái kia mới khoảng chứng 16, 17 tuổi. Mái tóc vàng cắt ngang vai, dù dáng người có phần khó đoán, đôi má bầu bĩnh của cô vẫn có nét gì đó đầy nữ tính. Trong tay cô là một bó hoa bọc trong một lớp vải trắng. Một cô gái xinh đẹp, toát lên đầy uy nghi trên khuôn mặt bình thản của mình. Tên của cô là Regin. Chính xác hơn là Regin Ester Loire Bastien do Charles. Cô là Công chúa của Vương quốc Brune, hiện đang là người cai trị Vương quốc nhân danh cha cô, vị Vua quá cố đã qua đời năm ngoái. 2 người đi theo Regin đều là hiệp sĩ, hiện đang làm nhiệm vụ tháp tùng cho công chúa. Cả hai người còn trẻ, tuổi mới chừng đôi mươi, trên người mặc giáp bạc, hông giắt kiếm. Tên người nam là Claude, nữ là Serena. 2 người đều nghiêm mặt lại, không phải chỉ vì nhiệm vụ của mình. Đó là bởi họ đang đi tới một nơi, một nơi quan trọng đối với cả chính họ. Đi được 10 bước khỏi ngôi đền, Regin dừng chân lại. Tại đó có 1 ngôi mộ vẫn còn mới, trống trơn không có mấy hoa văn trang trí. Trên bia mộ, ngoài cái tên Roland ra chỉ có khắc thêm 1 dòng chữ “1 hiệp sĩ giữa muôn vàn hiệp sĩ”. Chỉ chừng đó thôi là đủ để nói lên con người mang tên Roland kia. Hiệp sĩ Roland, còn được biết đến với biệt danh “Hắc Hiệp Sĩ”, là người hiệp sĩ trẻ tuổi đứng đầu Hội Hiệp sĩ Navarre, chỉ nhác thấy bóng dáng thôi là đủ để binh lính các nước láng giềng phải run rẩy. Anh ta đã qua đời vào trận nội chiến ở Brune vào năm ngoái. Tuy nhiên, thay vì chết trận, Roland đã bị Công tước Ganelon mưu sát. Dù nhiều người băn khoăn không rõ có phải xác của Roland bị bỏ lại hay không, thực tế Badouin, vị Tể tướng già, đã bí mật chuyển xác của anh đi và cho chôn cất tại đây. Nguyên do là bởi Roland là 1 đứa trẻ bị bỏ rơi, được một nữ tu trong ngôi đền tìm thấy và nuôi nấng. Nhìn xuống ngôi mộ, Regin thở ra 1 làn hơi trắng muốt. Đặt bó hoa lên mộ, cô chắp tay lại và cầu nguyện tới thần linh. Roland không để lại 1 ấn tượng thật sự sâu sắc trong lòng Regin. Dù cô có nghe nói tới lòng dũng cảm lẫn trung thành không ai sánh được của vị Hiệp sĩ, cô biết rằng những thứ đó đều chỉ là hướng tới cha cô, Đức vua Faron. Mọi chuyện vẫn cứ như thế mà tiếp diễn thuận buồm xuôi gió cho tới trước trận đánh Dinant năm ngoái. Đó là bởi vì Faron vẫn còn khỏe mạnh, việc triều chính không có trở ngại gì, và bản thân Regin do đang giả vờ làm hoàng tử nên cô không muốn chủ động tiếp xúc với các quan lại, quý tộc hay hiệp sĩ. Kể cả là vậy, cô cũng có lý do để mang những đóa hoa này tới viếng mộ Roland. Một trong số đó là bởi vì nếu là cha cô, Đức vua Faron, ông ta chắc chắn cũng sẽ làm điều đó. Một lý do khác nữa là, một khi nắm quyền cai trị vương quốc, cô cũng tinh ý nhận ra rằng Roland là một người đáng tin cậy đến mức nào, khiến cho cô không khỏi phải kính phục. Đặc biệt, gần đây biên giới phía Tây cũng gặp rất nhiều biến động. Vương quốc Sachstein bắt đầu cắt cử vài nghìn quân tới, liên tục xua quân quấy phá. Có vẻ chúng muốn thử xem công chúa trẻ tuổi sẽ xử trí ra sao, cũng như xem xét phía Tây bố phòng thế nào sau cái chết của Roland. Nữ Công chúa cũng từng hỏi Tigrevurmud Vorn 1 chút về Roland. Thường được người quen gọi thân mật là Tigre, chàng trai trẻ với mái tóc đỏ sẫm đã nói như thế này về vị Hắc Hiệp sĩ. “Mạnh... Đó là một người hết sức mạnh mẽ. Và cũng là một con người tuyệt vời.” Đó là những lời nói chứa đầy chân thành của anh. Khi còn bị coi là phản loạng bởi âm mưu của Công tước Thenardier, and đã phải giao chiến với Hội Hiệp sĩ Navarre do Roland cầm đầu. Anh là một trong số ít người Brune có đối thủ là Roland, và cũng từ đó, anh cũng được chứng kiến tận mắt sự dũng mãnh vô song của vị Hiệp sĩ. Đối với Tigre, Roland không chỉ là một đối thủ hùng mạnh, người Hiệp sĩ đó còn là một ân nhân. Vào thời điểm quân Muozinel bắt đầu cuộc xâm lược, các Hội Hiệp sĩ đang bảo vệ trên những vùng miền của Brune đều quy tụ lại dưới trường Tigre. Cộng với việc nhờ có Massas Rodant và Hugues Augre mà họ tới bên anh, bản thân Roland cũng góp phần vào việc này. Từng có lúc Tể tướng Badouin và Masas, hiện đang giúp đỡ cho Regin, cũng từng nói rằng nếu Roland vẫn còn sống, mọi chuyện có khi đã tốt đẹp hơn rất nhiều. File:MnOtV image 014.png Người chết không thể nào hồi sinh được, cho dù đó là Roland hay là cha của Regin đi nữa. Nhân danh những con người không còn ở trên thế gian, họ đã cùng nhau chung tay bảo vệ Vương quốc này. Cúi đầu xuống trước phần mộ của Roland xong, Regin quay lại nhìn đằng sau. Hai người vệ sĩ của cô đang đứng cách cô đúng 3 bước, chăm chú quan sát xung quanh. “Hai người không qua đây cầu nguyện liệu có ổn không?” Regin biết rằng 2 người bọn họ đều rất kính trọng Roland, nên cô mới hỏi như vậ. Tuy nhiên, không hề lay động, Serena chỉ đáp lại với một giọng điềm tĩnh có phần cộc lốc. “Cảm ơn ngài đã quan tâm, thưa Điện hạ. Tuy nhiên, tôi cho rằng lơ là nhiệm vụ canh gác của mình có khi còn làm cho linh hồn của Hắc Hiệp sĩ nổi giận hơn.” Dù Claude không nói gì, xem ra anh ta cũng có chung quan điểm với Serena. “Được rồi, vậy thì ta sẽ cầu nguyện cả phần của 2 người nữa.” Nói xong, Nữ Công chúa mỉm cười và quay mặt lại về mộ của Roland. Cô lại chắp 2 tay lại một lần nữa. Sau khi cần nguyện tới thần linh xong xuôi, Regin xuống núi cùng với 2 người lính gác. Họ đi dọc theo con đường dẫn thẳng tới Cung điện của mình. Claude đi trước vài bước, Serena sánh vai cùng với Regin. Hai người không hề nói năng câu gì. Trong khi mái tóc vàng của cô đung đưa theo những cơn gió mùa đông, Regin liếc sang nhìn Serena. Dù biết rằng so sánh như vậy thì thật không phải, thế nhưng Regin vẫn nghĩ như vậy. Jeanne là 1 trong những cận vệ của Nữ Công Chúa từ khi cô vẫn còn che giấu giới tính thật của mình cũng như núp dưới cái tên Regnas. Regin đã biết được rất nhiều thứ từ cô, từ cách nhóm lửa cũng như cách tìm đường bằng việc quan sát những vì sao sáng trong đêm, cho đến thậm chí cả những câu truyện cổ có phần tục tĩu mà các gia sư trong cung không đời nào nhắc tới. Jeanne đã qua đời sau trận Dinnant trên đường bảo vệ Regin. “Điện hạ, có gì trên mặt tôi ư?” Nhận ra Regin đang nhìn mình, Serena bối rối quay mặt lại. Regin chỉ lắc đầu. “Serena, đúng là ta đang phải nhờ cậy vào cô thật. Thế nhưng đừng có mà làm quá sức đấy.” Nhiệm vụ của họ là bảo vệ Regin, cho dù có phải đánh đổi bằng chính tính mạng của bản thân. Dù biết là vậy, Nữ Công chúa vẫn không thể nào kìm lại được ý nghĩ đó của mình. Serena, từ nãy tới giờ vẫn một vẻ mặt vô cảm, giờ đây đôi mắt của nữ Hiệp sĩ mở choàng ra đầy ngạc nhiên. Nở một nụ cười nhẹ nhàng, cô khẽ gật đầu. “Thứ lỗi cho thần đã để cho Điện hạ phải lo lắng như vậy. Dù rằng thần không có ý làm gì quá sức, thế nhưng thần sẽ cố gắng hơn nữa để không phải làm Điện hạ phải phiền lòng trong tương lai.” Dù cảm thấy là lời của cô đã bị hiểu nhầm tới kỳ lạ, thế nhưng Regin chỉ mỉm cười mà gật đầu. Một hồi lâu sau đó, 3 người cũng quay về được tới Kinh thành. Đích thân Tể tướng Pierre Badouin đi ra đón họ. Vị Tể tướng già mặc đồ lễ phục xám kính cẩn cúi đầu xuống. “Điện hạ, điện hạ quay về bình an vô sự là không còn gì tốt bằng rồi.” Nhắc tới dáng vẻ của Badouin, “giống như mèo” là thứ phù hợp nhất để mô tả ông ta. Một bộ ria mép trên khuôn mặt tròn trĩnh, chĩa ra 2 bên, rồi lại còn cả đôi mắt xếch ngược lên, trông thực sự giống như một con mèo. “Ta chỉ đi lên núi Luberon thôi mà. Lại còn cả Claude và Serena đây đi cùng nữa.” Trong khi Regin vừa cười mà nói như vậy, viên Tể tướng mặt mèo liếc sang nhìn về 2 người vệ sĩ. Clade và Serena chỉ lắc đầu, như thể muốn nói không có gì đáng để báo cáo. “Tể tướng, có việc này ta muốn bàn với người, người có thể ghé qua phòng của ta không?” Dù lời nói của Regin có phần hơi bất chợt, thế nhưng Badouin vẫn đáp lại bình thản như không. “Xin vâng. Tiện thể, ngài có cần tôi cho chuẩn bị rượu nóng không?” Badouin cũng từng tới thăm ngôi đền trên núi Luberon đôi ba lần. Ông ta biết rõ cái rét thấu xương của mùa này như thế nào. “Cảm ơn. Thế nhưng rượu thì ta xin được khước từ. Cho ta xin chút trà có được không?” Điều này đồng nghĩa với việc đây không phải là chuyện phiếm bình thường, chắc hẳn phải có việc gì đó rất quan trọng. Vừa đi theo Regin dọc theo hành lang, Badouin cho gọi 1 nữ hầu tới và lệnh cho người đó chuẩn bị trà để mang tới văn phòng của Công chúa. Tới nơi, chỉ có mình Regin và Badouin đi vào phòng. 2 người hiệp sĩ kia ở lại đứng gác phía ngoài. Regin là chủ nhân của tòa lâu đài này, cô có rất nhiều phòng. Nào là phòng khách, phòng thư giãn, phòng riêng tư, phòng ngủ và cả thư viện. Đương nhiên, không đơn thuần chỉ có đúng 1 phòng ngủ và 1 phòng riêng, cô có rất nhiều phòng với kích cỡ và trang trí đủ thể loại khác nhau. Thế nhưng, Nữ Công chúa lại thích một phòng làm việc không quá lớn, chỉ có 1 chút đồ đạc kèm theo lá cờ Hồng Mã Bayard trong đó. Kể cả khi không có việc gì cần phải giải quyết ngay, cô vẫn thường xuyên ở trong căn phòng này. Đối với Regin, đây là nơi mà tâm trí cô cảm thấy thư thả nhất. Vùa ngồi xuống đằng sau bàn làm việc, Regin chỉ chỗ cho Badouin ngồi. Viên tể tướng già cúi đầu và ngồi xuống. “Có chuyện gì vậy? Ngài cần gì từ cái thân xác già nua này?” “Về việc Công tước Ganelon và Thánh Động Cung Sangroel.” Regin đi thẳng ngay vào vấn đề. Công tước Ganelon là 1 quý tộc từng cai quản vùng Lutetia thuộc miền Bắc Vương quốc Brune. Nhà Ganelon từng là 1 gia tộc nổi tiếng bắt nguồn từ khi triều đại vị Vua Lập Quốc Charles, có thể nói đây là 1 trong những quý tộc đại diện cho toàn bộ Brune. Năm trước, hắn ta đã câu kết với Công tước Thenardier hòng ám sát Regin. Thêm nữa, đây cũng chỉ là kẻ đã dùng một thứ thuốc mờ ám khiến cho Vua Faron yếu đi và khiến cho tuổi thọ của ngài thập phần giảm sút. Nếu như không có âm mưu này, đáng lẽ ra giờ này cha của Regin vẫn còn khỏe mạnh. Kể cả là khi Ganelon không còn nữa. Hắn ta, sau khi giao chiến với Công tước Thenardier và thua trận, đã phóng hỏa thị trấn Artishem cũng như nhà cửa mình. Thị trấn tồn tại suốt hàng trăm nay chìm trong hỏa ngục, những cái xác cháy thành than vất vưởng khắp nơi xung quanh tòa biệt thự cháy rụi đổ nát của y khiến cho người ta tin rằng, Ganelon đã không chạy thoát được. Trải dài ở dưới Artishem là Thánh Động Cung Sangroel. Thánh Động Cung Sangroel là nơi Vua Charles nhận được điềm báo. Đó là 1 tòa kiến trúc đồ sộ với dáng vẻ của một tòa lâu đài hoặc 1 ngôi đền thời xa xưa, với một cánh cửa chi có những ai trong Hoàng tộc của thể mở được. Vào cuộc nội chiến năm ngoái, Regin cùng với Tigre và nhiều người khác đã đích thân tới đây để chứng minh cô mang trong người dòng máu của hoàng gia. Thế nhưng, họ đã bị Công tước Thenardier chặn đường khi mới bước vào, kèm theo đó, trần của con đường địa đạo bị sập, khiến cho Thánh Động Cung Sangroel hoàn toàn bị chôn vùi. “Tại sao Thánh Động Cung Sangroel lại nằm ở dưới Artishem – ngay dưới chân của Ganelon chứ?” Với vẻ mặt có phần lo lắng, Regin hỏi Badouin. Trước đây, Regin chưa bao giờ thực sự để tâm đến chuyện này. Không phải là cô hoàn toàn quên bẵng đi, nhưng cô không thể nào có thời gian suy nghĩ tới điều đó do cô còn phải gánh vác trọng trách của 1 người cai trị. Cô chỉ vừa mới sực nhớ ra vì chính Ganelon là kẻ đã ám hại Roland. Trước ánh mắt đầy nghiêm túc của Regin, Badouin mất một lúc mới thốt lên như thể đang lục lọi lại trong tâm trí mình. “Theo truyền thuyết cũng như các văn tự cổ từ thời lập quốc, tương truyền Vua Charles rất tin tưởng vào Công tước Ganelon Đệ Nhất. Đối với Charles, Ganelon có thể được coi như là người bạn thân cận nhất của ngài. Có lẽ vì thế mà Ganelon đã được trao cho Lutetia sau khi phát hiện ra được Thánh Động Cung Sangroel.” “Chả lẽ nào Đức vua lại trao Artishem và Thánh Động Cung Sangroel lại như vậy chỉ vì lý do đó thôi ư?” Trước khuôn mặt của Nữ Công chúa đầy vẻ băn khoăn, viên Tể tướng lại đáp lại, tay vân ve ria mép. “Theo 1 tài liệu để lại, có vẻ là Công tước Ganelon đệ nhất từng là 1 mục sư. Còn lý do tại sao Vua Charles lại cắt Lutetia cho ông ta tới giờ vẫn chưa có ai tìm ra được.” Regin mở tròn mắt ra trước lời của Badouin. “Mục sư ư...? Ta đã từng có được dạy về truyền thuyết thành lập vương quốc này ở trong cung, nhưng đầy là lần đầu tiên ta được nghe tới việc Công tước Ganelon đệ nhất là 1 mục sư.” “Thưa Điện hạ, không phải là do ngài sơ suất đâu. Đó là bởi vì trong truyền thuyết chỉ được phép kể tới việc ông ta là người bạn cũng như viên quần thần thân cận nhất của Vua Charles mà thôi.” Badouin không hề phản bác lời của Regin, ông ta chậm rãi gật đầu 1 cái. Trước thái độ của viên Tể tướng, Nữ Công chúa nhíu mày lại, cảm thấy không thể hiểu nổi đầu đuôi ra sao. “Liệu có sự tình gì đằng sau chuyện đó không?” “Dù mang tiếng là mục sư, thế nhưng so với mục sư hiện tại thì hai bên đúng là khác nhau một trời một vực. Tương truyền Ganelon là một người thường hay lui tới một dãy núi nằm sâu trong một cánh rừng tuyết phủ để nói chuyện tới thánh thần, thậm chí là cả linh hồn và tiên nữ, đồng thời vay mượn tới trí khôn của họ. Thêm nữa ông ta còn rất am hiểu tới ma thuật nữa.” “Thay vì là mục sư, nghe như thể là pháp sư hay phù thủy thì đúng hơn...” Regin vô tình thành thật thốt ra những suy nghĩ trong đầu mình ra thành lời. Badouin chỉ nheo mắt lại mà mỉm cười. “Dù thần cũng cùng có chung suy nghĩ với Điện hạ, người thời đó vẫn gọi Ganelon là 1 mục sư. Có lẽ tới cả nhiệm vụ của 1 mục sư thời đó cũng khác so với bây giờ.” “Đó là tại sao điều này lại không được viết vào trong truyền thuyết hử.” Regin cuối cùng cũng hiểu ra. Ai có lẽ cũng sẽ cho rằng để việc người bạn thân cận và tin cẩn nhất của vị Vua Lập Quốc là 1 người nói chuyện với linh hồn và am hiểu pháp thuật thì cũng chẳng hay ho gì. Badouin lại nói. “Thêm vào đó, có vẻ như là cho tới đời thứ 3 hoặc thứ 4 của Nhà Ganelon, người ta vẫn gọi đây là dòng tộc mục sư. Có thể là, trong khi trở thành 1 dòng dõi quý tộc của Brune, toàn bộ kiến thức, lễ nghi cũng như những lời răn dạy của mục sư thời đó đều đã biến mất mà không hề được lưu truyền lại.” Trong khi Vương quốc Brune đang định hình để trở thành 1 quốc gia hoàn chỉnh, nhiều nghi thức và thói quen trong giới quý tộc cũng nảy sinh theo. Nhà Ganelon có lẽ sau nhiều đời cũng dần dần bỏ lại chuyện họ từng là mục sư đi. Đó là lời giải thích của Badouin. “Đó là tất cả những gì tôi biết, liệu chừng đó thôi có giúp ích được gì cho Điện hạ không?” “Có đấy, Badouin, cho ta gửi lời cảm ơn.” Regin mỉm cười và tỏ vẻ cảm ơn. Không phải là cô không còn bận tâm gì về điều đó nữa, thế nhưng ít ra mọi mối nghi ngờ của cô cũng đã được giải tỏa. Nữ Công Chúa liền chuyển sang 1 chủ đề khác. “Tiện thể, tình hình Artishem hiện thời như thế nào rồi?” Sau khi cuộc nội chiến kết thúc, là người cai trị Vương quốc, đương nhiên Regin cũng bắt tay vào việc xây dựng lại Artishem. Cô đã cho gửi binh lính tới kèm theo vật liệu để phục vụ cho quá trình sửa sang lại trung tâm của thị trấn phía Bắc này. “Theo báo cáo được gửi tới từ tháng trước, Artishem đã phục hồi được khoảng một phần ba so với trước. Vốn dĩ đây cũng là một vị trí chiến lược nối liền giữa trung tâm Vương quốc với miền Bắc, cho nên lưu lượng người chảy vào đây cũng rất dồi dào. Chỉ cần một chút thời gian nữa thôi là thị trấn này sẽ quay trở về hệt như thuở ban đầu. Thần cho rằng đã tới lúc chúng ta bắt đầu với Thánh Động Cung Sangroel.” Khi Regin đề đạt việc phục hưng lại Artishem, cô đã ra lệnh để im Thánh Động Cung Sangroel chôn vùi dưới đống đổ nát. Nguyên do là bởi cô cho rằng Sangroel không hề liên quan gì tới những người dân ở thị trấn, và cô muốn ưu tiên cho việc xây dựng lại Artishem. Thế nhưng, trước lời đề nghị của Badouin, Regin lại lắc đầu. “Việc đó vẫn có thể trì hoãn lại, đúng không nào? Dù sao đi nữa thì chúng ta cũng không cần gì phải vội vã với Thánh Động Cung Sangroel. Bao giờ xuân sang, sau khi nghe báo cáo thì ta sẽ quyết...” “Xin vâng.” Đột nhiên, Regin rời mắt khỏi Badouin mà hướng sang bàn làm việc của cô. Cô lại nhớ về Tigre. Đối với Regin, Thánh Động Cung Sangroel là một nơi nhiều binh lính đã phải bỏ mạng lại, và cũng là nơi mà người cô hằng yêu dấu đã phải đau buồn. Người mà cô hằng yêu dấu đó giờ đang lưu lạc làm khách ở xứ ngoại quốc, thế nhưng nghe nói rằng anh ta đã mất tích giữa những cơn sóng biển vào mùa đông lạnh giá. Chính sứ giả Zhcted đã báo cho cô gái mang tin đó tới tai cô. Lấy cớ muốn nghe rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Regin đã cho giữ viên sứ giả đó lại tại 1 phòng trong Hoàng cung. Dù thực tế là giam giữ, thế nhưng viên sứ giả kia vẫn được đối đãi tử tế, suốt mấy ngày liền không hề có một lời kêu ca phàn nàn gì hết. Cùng lúc đó, Regin đã lệnh cho Massas Rodant tới Zhcted để xác nhận việc Tigre mất tích thực hư ra sao. Cô thầm nghĩ rằng cô không hể quan tâm giờ trông anh thế nào, thứ cô muốn duy nhất là chàng trai có thể được bình an vô sự. Cô muốn chào đón anh bằng cách tốt nhất có thể vào ngày anh trở về Brune. Đôi mắt xanh đượm đầy lo âu và hi vọng, Regin thầm cầu nguyện tới chư vị thánh thần. Viên Tể tướng mặt mèo hiểu rõ rằng sự tồn tại của Tigre là một điều rất quan trọng đối với Regin, theo nhiều ý nghĩa khác nhau. Sau khi rời khỏi văn phòng của Công Chúa, Badouin quay về phòng mình trong Hoàng cung. Căn phòng của viên Tể tướng già cũng không khác biệt là mấy so với phòng của Regin. Hai bên tường gắn những kệ chứa đầy tài liệu và thư từ, 1 lá cờ Bayard treo ngay ở chính giữa. Thêm vào đó còn có 1 bàn làm việc, 1 chiếc ghế cũ kỹ, 1 chân nến, cùng với 1 chồng giấy tờ đợi chờ được giải quyết chất đống trên bàn. Thắp nến xong, Badouin quay ra bàn làm việc và ngồi xuống. Từ khi được Đức Vua Faron quá cố giao cho trọng trách, đầy hầu như là công việc thường nhật của viên Tể tướng. Vừa mới định động tay vào đống giấy tờ, chợt có ai đó từ bên ngoài gõ cửa. Viên Tể tướng mặt mèo nói “Vào đi” sau khi vuốt ria một cái. Một viên quan từ ngoài bước ngoài. Ông ta trao một bức thư cho Badouin. “Đây là thư từ Nemetacum.” Badouin nheo mắt lại trước lời của viên quan kia. Sau khi lại vuốt ria một lần nữa, ông ta nhận lấy bức thư. Viên quan cúi đầu xuống và bước ra. Sau khi đảm bảo là cửa đã đóng, Badouin mới lặng lẽ nhìn sang bức thư. Nemetacum nằm ở miền Nam của Vương quốc Brune. Dù đây là từng là lãnh địa dưới quyền của Công tước Thenardier, thế nhưng sau cái chết của Công Tước và Zaian – con trai của Công tước – vào năm ngoái, Hoàng gia đã cho xung công mảnh đất đó lại, đồng thời Regin cũng cho cử một viên quan tới để quản thúc. Với tội danh mưu sát Đức Vua và Công Chúa, đáng nhẽ ra Nhà Thenardier đã phải bị xóa bỏ, thế nhưng, vì một vài lý do mà tới giờ gia tộc này vẫn còn đó. Một trong những lý do là vì cần phải kéo dài. Một khi nhà Thenarider không còn nữa, chỉ trong 1 đêm sẽ có vô số người trở thành thất nghiệp và vô gia cư. Không muốn để điều đó xảy ra, Regin và Badouin đã phải đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau, để rồi đi tới quyết định cho phép Nhà Thenardier được tiếp tục. Một nguyên nhân nữa làm ở điểm yếu trong quyền cai trị của Regin. Vào lúc Faron còn khỏe mạnh, Regin chỉ là một cái bóng mờ nhạt, không có bất cứ công trạng nào đáng kể. Thêm nữa lý do được công bố ra bên ngoài về việc tại sao cô lại được nuôi dạy như 1 Hoàng tử là “theo một lời tiên tri”. Khi cuộc nội chiến kết thúc, trong số những quý tộc đã bình tĩnh lại thì vẫn còn một số tiếp tục tỏ ra hoài nghi về Regin. Có một số thậm chí còn thắc mắc không rõ liệu cô có phải là bù nhìn, là con rối của Vương quốc Zhcted hay không. Cho dù Badouin và Massas đã phải yêu cầu một số người thề trung thành với Hoàng tộc cũng như dần dần dày công đi thương thảo và thuyết phục, điều đó không đồng nghĩa với việc không còn những thứ nằm ngoài dự liệu xảy ra. Nếu mà trong bối cảnh như thế mà lại bàn tới việc loại bỏ Nhà Thenardier, thể nào họ cũng sẽ càng khiến cho những kẻ không ủng hộ Regin trở nên thêm phần kích động, cho dù việc đó có đúng đắn tới đâu đi chăng nữa. Lãnh địa của Nhà Thenardier đã bị xung công, không còn ai làm người nối dõi, kể cả có để mặc như vậy thì cuối cùng gia tộc rồi thì cũng sẽ tự mình biến mất. Là vậy nên họ quyết định tạm thời chờ đợi cho 1 thời gian thích hợp rồi mới tính tới việc phế bỏ. Nghe đồn rằng Nhà Thenardier cũng đang rục rịch lập mưu phản loạn. Đó là những gì được viết trong lá thư gửi tới Badouin. Người gửi chính là Gerard Augres. Anh ta là con trai của Tử tước Hugues. Augres đang cai quản vùng Territoire nằm ở miền Đông của Brune, hiện là viên thư ký trong Hoàng Cung. Được Badouin ra lệnh, hiện tại anh ta đang ở Nemetacum. Cho dù được phái tới đây chỉ để kiểm tra xem tàn quân của Công tước Thenardier có động tĩnh gì đáng nghi không, Gerard đã nắm bắt được hành tung của chúng, đồng thời điều tra và báo cáo lại Badouin. Theo thư của Gerard, kẻ chủ mưu chính là vợ của Công tước Thenardier, tên Melisande. Là cháu gái của Faron, nên Melisande cũng là chị họ của Regin. Đáng nhẽ ra, Melisande cũng phải bị buộc tội vì là vợ của Thenardier, thế nhưng nhờ có dòng dõi hoàng tộc nên cô ta được thoát tội. Về phần Regin, cô cũng không nỡ cướp đi tính mạng của một người chị họ vừa mất cả chồng lẫn con, cũng như không còn chút lãnh thổ nào trong tay. Thế nhưng, Regin và Badouin cũng không đời nào cứ thế mà để im được. Melisande bị gửi tới một ngôi đền ở Nemetacum. Dù những tưởng rằng nếu như cô ta dành phần đời còn lại của mình ở yên tại đền, xem ra mong muốn của họ đã không thể nào trở thành sự thật. Sau khi xem xong bức thư, Badouin nhìn chăm chăm lên không trung mà chìm trong suy nghĩ. . . Tại một góc rừng chìm trong bóng tối, có 2 chàng trai trẻ. Ở đấy hiện đang có 1 cảnh tượng hết sức lạ lùng. Trong khi cả 2 đều đang ngồi, 1 người đang chĩa kiếm vào người kia. 1 bầu không khí căng thẳng cuốn lấy cả 2 con người, trong khi ngọn lửa trại phất phơ theo gió đông chiếu rõ khuôn mặt của họ. Nơi này thuộc vào công quốc Lebus, nằm ở phía Tây Bắc Vương quốc Zhcted, nằm trong một khu rừng cách Lâu đài Lebus tầm 1 ngày đường. Đã 2 tiếng trôi qua kể từ khi hoàng hôn rủ xuống. Ngồi trước mũi kiếm là một chàng trai trẻ tóc đỏ sẫm, tuổi trạc chừng 16, 17. Quần áo anh hết sờn chỗ này lại rách chỗ khác, vẻ mặt anh cũng lộ rõ mệt mỏi. Tên của anh ta là Urz. Anh là 1 người hầu cận phục vụ cho nữ Vanadis Elizavetta Fomina, lãnh chúa xứ Lebus. Dù mang tiếng là hầu cận, cái tên Urz là từ đầu tiên nảy ra trong tâm trí anh sau khi lục lọi trí nhớ bản thân với ký ức của anh mười ngày đổ về trước hầu như không còn (có lẽ là như vậy). Đang giơ kiếm trước mặt Urz là một người Muozinel trẻ tuổi với nước da nâu đặc trưng, tuổi tầm đôi mươi. Người cao ráo, mũi và cằm nhỏ gọn, ánh mắt sắc bén không khác gì dã thú. Không như Urz, anh ta đang mặc một bộ trang phục của lữ khách. Người Muozinel này là Damad. Đáng nhẽ ra đây là ân nhân cứu mạng Urz khỏi đám cướp đường, thế nhưng sau khi trò chuyện vài câu bên đống lửa, bất chợt Damad lại rút kiếm ra mà chĩa vào mặt Urz. Về phần Urz, việc này thật sự đúng là không thể nào hiểu nổi. Vừa nhìn chằm chằm vào mũi kiếm tuốt trần. Urz thầm nghĩ. “Ngươi vừa nói là Tigrevurmud Vorn ư...?” Một giọng nói đầy hằn học pha lẫn cả ngạc nhiên thoát ra từ miệng Damad. Sau một chút do dự, Daman liền đâm thẳng vào mặt Urz. Chợt Urz ngả mình ra đằng sau. Trên thân hình của chàng trai trẻ đang ngựa mặt, thanh kiếm lao thẳng vào khoảng không. Không định để Urz chạy thoát, Damad liền chĩa mũi kiếm xuống. Dù mặt mày tái nhợt lại, Urz vẫn hốt hoảng duỗi mạnh chân trái ra. Anh lấy hết sức bình sinh mà đạp thẳng vào đống lửa. Củi trong đống lửa đổ sụp xuống, tàn bay tứ tung. Ngọn lửa trại nghiêng ngả, liếm cả vào chân của Damad. Người Muozinel trẻ tuổi hét lên một tiếng đầy đau đớn. Thanh kiếm đang tiến sát tới cổ họng Urz bị lệch sang 1 bên. Không bỏ lỡ cơ hội đó, Urz lăn sang 1 bên và tránh được lưỡi kiếm của Damad. Anh nhổm dậy và quay lưng lại, lao thẳng vào bóng đêm đằng sau những rặng cậy. Miệng thở hồng hộc, Urz loạng choạng chạy trong cuồng loạn. Phải nói rằng anh quá may khi không bị đâm đầu phải cây. Bỗng anh vấp chân vào rễ cây. Chưa kịp buột miệng thốt lên “khốn khiếp!”, Urz đã ngã bổ nhào xuống đất. Chút không khí còn lại trong phổi anh bị tống ra ngoài, kèm theo đó là 1 tiếng hét không lời. “Ư a...” Anh không còn đủ sức để đứng bật dậy ngay được. Tới cả từng hơi thở của anh cũng hết sức đau đớn. Cả người anh như muốn gào thét lên. Giữa mặt đất và bầu không khí lạnh lẽo, Urz thẫn thờ nhìn vào bóng tối. Ngày hôm nay, 1 ngày chỉ toàn những sự việc khó có thể tin được xảy ra liên tục, tựa như thể anh đang bị bắt phải nhìn hết cơn ác mộng này tới cơn ác mộng khác. Buổi trưa, Urz đi theo Elizavetta tới một ngôi đền cổ. Dường như cô có một vài kỷ niệm không được dễ chịu cho lắm ở nơi này. Khi 2 người đang định ra về, 1 toán Hiệp sĩ Lebus xuất hiện. Họ cho rằng Urz được thăng cấp quá nhanh so với tài năng của bản thân, thậm chí còn tuốt kiếm ra, không chỉ là với Urz, mà còn là với Elizavetta, chủ nhân của họ. Rõ ràng những Hiệp sĩ đó không còn tỉnh táo nữa mới dám làm điều đó. Thêm nữa, 1 mụ già đang nghi tự xưng là Baba Yaga xuất hiện, khiến cho mọi việc lại càng thêm phần rối rắm. Không còn lựa chọn nào khác, Elizavetta buộc phải hạ gục họ, cùng với Urz chạy trốn vào trong ngôi đền. Thế nhưng, sàn của ngôi đền lại sụp xuống, kéo theo cả 2 người. Dù chỉ bị xây xát nhẹ nhờ được Valitsaif, Long khí của Elizavetta, bảo vệ, câu chuyện vẫn chưa dừng lại ở đó. Ở dưới lòng đất có một con Rồng với dáng vẻ hết sức cổ quái, có tới tận 2 đầu. Đó là 1 loài Rồng dị dạng – Rồng Hai Đầu. Cho dù chiến đấu hết sức quyết liệt để bảo vệ Urz, Elizavetta vẫn phải chịu cảnh thúc thủ trước sức mạnh con Rồng, chưa kể cô còn phải giao đấu trong bóng tối. Vào chính lúc đó, bỗng dưng Urz lại sử dụng 1 sức mạnh hết sức bí hiểm. 1 cây cung đen tuyền xuất hiện, với tên được tạo bởi sức mạnh từ ngọn roi Hỗn Hung của Elizavetta. Bằng thứ vũ khí đó, Urz đã giết được con Rồng Hai Đầu. Nhưng chưa kịp được nghỉ ngơi bao lâu, Baba Yaga lại xuất hiện, còn Urz thì bị bóng tối nuốt chửng. Và, khi tỉnh lại, anh lại thấy mình đang nằm một mình ở giữa một khu rừng. Cây cung đen đã biến mất, còn Elizavetta thì không thấy tung tích đâu. Đau đớn, mệt mỏi và lạnh lẽo, Urz hầu như không cựa quậy nổi, may mà nhờ có Damad, tự xưng là lái buôn, đi qua mới cứu được mạng anh khỏi 1 toán cướp. Trong khi đang ngồi nhấm nháp món thịt thỏ do Damad săn được bên đống lửa, Urz bắt đầu thuật lại danh tính của mình. Đang trò chuyện, chợt Damad hỏi. [Ông bạn biết một người mang tên Tigrevurmud Vorn không?] Khi Damad hỏi, Urz đã đáp lại rằng có lẽ đó chính là anh. Câu trả lời đó đã khiến cho Damad hành động. Nhớ lại những gì Damad nói khi đang chĩa kiếm vào anh, Urz không còn nghi ngờ gì nữa. “Tigrevurmud Vorn hử...” Đang lẩm bẩm, chợt Urz cảm thấy đầu óc hơi choáng váng. Dù vậy, anh không nhìn thấy vô số cảnh tượng quay cuồng trong tâm trí như khi vừa mới bắn hạ con Rồng Hai Đầu bằng cây cung đen. “--- Bây giờ thì tính sao đây?” Urz cố gắng gượng nhấc cái thân thể lạnh ngắt của mình lên. Quay lại nhìn, anh vẫn thấy một đốm lửa nhỏ bé nằm ẩn sau giữa bóng đêm và những tán cây lòa xòa, đó chính là đống lửa trại. Dù chạy thục mạng như thế, thực ra tính từ đây tới ngọn lửa cũng chỉ cách nhau tầm 30 arshin. Rũ bớt đất cát bám trên áo quần, Urz bắt đầu suy nghĩ. Tại sao Damad lại không đuổi theo anh? Anh phải làm gì tiếp theo đây? Anh không có nhiều thời gian nữa. Trong khi anh bị thương tích toàn thân, Damad vẫn có thừa cơ hội để tìm ra Urz. Trời càng ngày càng tối xầm lại, và cái lạnh chỉ càng khiến anh thêm khốn khổ. “Thật là, ngày hôm nay quả thật là chỉ toàn những chuyện chẳng ra đâu vào đâu cả.” Thế nhưng, anh không hề nghĩ tới việc bỏ mạng tại đây. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, anh phải trở về Lâu đài Lebus, về với Elizavetta. Urz hít một hơi thật sâu. Anh nhìn về ánh lửa xa xa. Anh thử xem tay chân mình còn động đậy nổi không. Mọi thứ đều ổn. Đôi mắt đen của chàng trai trẻ sáng bừng 1 ý chí mạnh mẽ. Urz nắm lấy 1 bên tay áo mà lấy hết sức xé mạnh. Dù bị thương từ trong trận giao chiến với con Rồng, dù có bị yếu đi, anh vẫn đủ sức để xé. Để chắc ăn, anh trốn đằng sau 1 gốc cây. Urz bắt đầu chuẩn bị phản công. Sau khi để sổng mất Urz, Damad dõi theo bóng đen thăm thẳm đằng sau những thân cây xếp thành 1 hàng. “Cứ tưởng hắn ta ngờ nghệch lắm, ai dè lại nhanh trí đến bất ngờ.” Dù giọng nói kia có phần khó chịu, cơn giận dữ của Damad hướng về bản thân nhiều hơn là tới Urz.Trong một khoảnh khắc ngắn, Damad đã phạm phải tận 2 sai lầm. Một đó là đã rút kiếm ra trong khi vẫn còn chưa biết chắc liệu Urz có phải là Tigre không. Và lỗi thứ hai là đã do dự sau khi chĩa kiếm vào Tigre. Đáng nhẽ ra mới tới nước đó thì không việc gì phải rút kiếm ra, và một khi đã rút ra là phải giết mục tiêu ngay. Chính vì không thể nào làm được điều đó mà Urz mới cơ hội để hoặc là phản công, hoặc là chạy trốn. “Tệ thật... Nếu mà Hoàng Đệ của Quốc Vương mà biết chuyện này, e rằng không chỉ có mỗi trách cứ là qua chuyện đâu.” Damad không phải là một lái buôn, mà là một trong những cận vệ của Kreshu Shaheen Baramir, em trai Quốc vương Muozinel. Kreshu đánh giá rất cao người trẻ tuổi này và cũng kỳ vọng rất lớn, cho dù là với tư cách một chiến binh hay một chỉ huy. Nhiệm vụ lần này được giao phó cho Damad là xác nhận xem Tigre đã chết thật chưa, và giết Tigre nếu như còn sống. Đã 10 ngày trôi qua kể từ khi Damad đột nhập vào Zhcted, giả trang làm lái buôn. Tính tới trước ngày hôm nay, anh ta vẫn chưa hề tìm được bất cứ thông tin nào đáng kể về Tigre. Dù băn khoăn không rõ có phải là Tigre đã ngã xuống biển mà chết như người ta đồn đại hay không, Damad vẫn tiếp tục tìm kiếm. “... Lại còn cái vụ mình manh động khi nghe hắn ta nói “có lẽ là tôi” nữa, nói thế thì bố ai mà bình tĩnh nổi chứ.” Dù miệng vẫn tiếp tục phàn nàn, đôi mắt đen của Damad vẫn tiếp tục lần theo khu rừng rậm rạp phủ trong màn đêm. Một thanh kiếm lưỡi cong, thứ vũ khí đặc trưng của Muzionel, đang nằm trong tay Damad. Anh ta chắc mẩn rằng Urz sẽ quay lại. --- Chạy trốn được vào trong rừng không có nghĩa là hắn ta đã thoát nạn. Rốt cuộc thì, không đời nào hắn ta lại có thể vượt qua khu rừng được trong cái lạnh này mà lại không có thứ gì để chiếu sáng. Cùng lắm thì cũng chỉ trụ được nửa tiếng là cùng. Kể cả là Urz có trùm kín trong áo khoát và ngồi gần lửa trại đi nữa, cái lạnh vẫn có thể luồn lách vào qua từng kẽ hở. Dù Damad là người Muozinel quen với cái nóng và không chịu lạnh giỏi, tuy Urz không phải là Damad nhưng tiết trời vào buổi đêm sẽ giết chết Urz. Thêm nữa, Urz đã bị yếu đi. --- Nếu mà cứ đà này mà hắn ta không quay lại, hắn ta có chết gục ở xó xỉnh nào trong rừng cũng không có gì là lạ. Nếu mà là như thế thì hắn ta quả đúng là 1 tên đần. Vấn đề nằm ở chỗ khi nào hắn ta sẽ quay lại, cơ mà... Tới đó, mạch suy nghĩ của Damad dừng lại tại đó. Có 1 thứ gì đó từ trong bóng đêm cưỡi gió đang bay tới. Cảm thấy nguy hiểm, Damad nhanh chóng cúi rạp người xuống đất. Cái lạnh khẽ lướt qua cằm anh ta. Sau chưa đầy 5 giây, lại thêm 1 tiếng xé gió nữa. Một âm thân cộc cằn vang lên ở cạnh tay phải của người Muozinel trẻ tuổi, kèm theo đó có một thứ gì đó nẩy lên. Vật đó lăn lông lốc trên mặt đất sau khi nẩy thêm 1 lần nữa. Damad cảm thấy ớn lạnh. Anh ta không ớn lạnh vì tiết trời, Mồ hôi túa ra ướt đẫm trán người đàn ông trẻ tuổi. Tay chiến binh Muozinel tin chắc rằng đó chính là Urz. Ngay cạnh anh ta chính là đống lửa trại, một mục tiêu hoàn hảo cho Urz đang lẩn khuất trong bóng tối. Thế nhưng, Damad cũng do dự không muốn dập lửa đi. Trong rừng lúc này khả năng vẫn có thú dữ, Giả sử như mà có sói, Damad sẽ dễ dàng làm mồi cho chúng. Thêm nữa, cho dù có dập lửa đi nữa cũng không đồng nghĩa với việc Damad sẽ chiếm được lợi thế. Cả 2 sẽ phải vật lộn trong bóng tối, dò dẫm tìm kiếm vị trí của nhau trong khi bị cái lạnh buốt giá hành hạ. Đối với một người coi cái lạnh là điểm yếu, đó là một diễn biến mà Damad hoàn toàn muốn tránh. 1 hòn đã nữa lại bay tới, phi thẳng vào đống lửa, khiến cho tàn lửa bắn tung tóe. --- Nhanh đấy. Nhắm cũng chuẩn nữa. Cứ tưởng là hắn ta yếu đi nhiều rồi cơ đấy. Dù rằng chỉ cần sai một li là hòn đá sẽ đập vào cây mà văng ngược lại, Urz vẫn tiếp tục ném như thể không hề quan tâm tới điều đó. --- Hòn đá đó không được ném bằng tay. Vậy ra hắn ta dùng một mảnh vải và làm một cái ná tự chế hử. Nếu như là ném bằng tay, không đời nào hòn đá bay thẳng tới tận đó được. “Không tồi chút nào.” Damad thốt lên đầy thán phục. Đạp vào đống lửa, nhân lúc Damad còn chưa hết kinh ngạc mà bỏ chạy vào rừng. Nếu mà chỉ có như vậy thôi, Damad đã không đánh giá Urz cao như vậy. Chàng trai trẻ mất trí đó đã ngay lập tức phản công lại. Hơn thế nữa, thay vì lao vào Damad với kiếm trong tay, một lợi thế không thể trối cãi được, anh lại ẩn mình trong bóng tối mà ném đá ra. --- Vào lúc bị đám cướp bao vậy, cứ tưởng hắn ta chỉ là một kẻ đang hấp hối bên đường thôi, ai dè.. Đôi mắt đen của người Muozinel trẻ tuổi không còn mấy ý chí chiến đấu nữa. Không nghi ngờ gì nữa, Urz cũng là một chiến binh. Và Damad cũng không hề ghét bỏ gì 1 người như vậy. --- Nếu cứ thế này thì chẳng khác gì thi xem ai dai sức hơn ai. Dù rằng cuối cùng phần thắng có nghiêng về phía mình đi nữa... Nguyên do không phải là bởi khả năng của mỗi bên. Urz lúc này mệt mỏi hơn Damad nhiều, đã vậy lại không có gì để chống chọi lại cái lạnh. Chỉ cần thêm 1 lúc nữa là cái lạnh sẽ tước hết thân nhiệt của anh đi. Thế nhưng, nếu là thế thì Damad cũng khó mà tránh khỏi thương tích đầy mình. Để bị thương chỉ vì một cuộc đánh lộn vớ vẩn như thế này thì quả là quá ngớ ngẩn. Trên hết, có thắng thì Damad cũng chẳng đạt được gì. Đúng như dự liệu, lại thêm 1 viên đá nữa phi vào đống lửa. Như thể đợi chờ sẵn khoảnh khắc đó, Damad nhanh chóng đứng bật dậy. Anh ta tiến chục bước, bỏ lại đống lửa về phía sau, tay đưa kiếm về phía đám cây, miệng hô lên vào bóng tối. “Urz! Tôi muốn được nói chuyện. Tôi sẽ đặt kiếm tại đây để làm chứng cho lời của tôi. Hãy quay lại đây đi!” Sau khi lớn tiếng hô lên như vậy, Damad liền đâm kiếm xuống đất, rồi quay về ngọn lửa trại, ngồi đợi Urz xuất hiện. Dù Damad hiểu rằng lời nói của anh quả thực là quá ích kỷ, nhất là sau khi đã chĩa kiếm vào Urz như vậy, thế nhưng anh ta vẫn cho rằng Urz có lẽ sẽ chấp nhận. Người đó chắc hẳn cũng sẽ đi tới kết luận đó. Sau tầm 1 phút trôi qua, một bóng người mờ ảo từ trong bóng tôi bước ra. “Bước 10 bước... không, 5 bước nữa khỏi thanh kiếm. Xòe tay ra và giơ tay lên.” Bóng người kia thốt lên 1 tiếng đầy căng thẳng. Damad làm theo những gì Urz nói. “Giơ tay lên” là đủ thấy anh muốn chắc chắn là không còn bất cứ vũ khí gì khác, kể cả đó là dao hay đá. Theo sau tiếng bước chân dò dẫm, Urz từ sau gốc cây bước ra. Anh cuộn một miếng vải lấm lem bùn đất vào tay phải, tay trái cầm theo 1 hòn đá. Chỉ cần Damad có động tĩnh gì khả nghi là anh sẽ sẵn sàng ném ngay lập tức. Vừa cảnh giác theo dõi Damad, Urz rút thanh kiếm đang cắm xuống đất lên. Anh thở đều lại và bỉnh tĩnh nói. “Làm ơn hãy cho tôi biết, tại sao anh lại tấn công tôi.” 1 câu hỏi không có gì là lạ. Damad bắt đầu đáp lại bằng những gì bản thân đã chuẩn bị sẵn trong đầu. “Đó là bởi ông bạn đã nói mình có thể là Tigrevurmud Vorn.” Urz há hốc miệng ra. Anh cảm thấy băn khoăn không rõ liệu có phải là đã có chuyện gì đó xảy ra giữa Tigre và Damad. Sau một hồi im lặng, chàng trai tóc đỏ mới hỏi lại. “Có phải Tigrevurmud Vorn đã làm gì khiến anh căm hận ư?” “Không. Dù tôi không thể nói rõ cho ông bạn được, thế nhưng sự thể là, tôi phải giết hoặc bắt sống người đó.” Hai tay vẫn giơ lên, người Muozinel trẻ tuổi ưỡn ngực ra mà thản nhiên đáp. Urz thẫn thờ nhìn Damad. Có lẽ anh không nghĩ là Damad lại nói thẳng hết ra như vậy. Thế nhưng, Urz nhanh chóng lấy lại bình tĩnh mà đưa ra một câu hỏi mới. “Vậy thì tại sao anh lại gọi tôi, thậm chí còn vứt cả kiếm đi? Là bắt sống hay giết đi nữa, anh chỉ cần đợi cho tới khi nào tôi không động đậy nổi là xong rồi còn gì. Anh nghĩ rằng tôi sẽ ngoan ngoãn nghe lời nếu như anh giải thích mọi chuyện sao?” “Ờ, về chuyện đó”, Damad dè dặt ra vẻ hoài nghi rồi nói. “Có thật ông bạn là Tigrevurmud Vorn không?” Lời nói đó xem ra khiến cho Urz phải ngạc nhiên. Chàng trai trẻ mất trí nhớ mở tròn xoe mắt ra. “... Ý của anh là sao?” “Thì y hệt như những gì tôi vừa nói. Chính ông bạn cũng đã nói rồi đó. Và tôi cũng đã tin là như vậy. Thế nhưng nghĩ kỹ lại thì chẳng hề có bằng chứng nào cả.” Không hề nhúc nhích dù chỉ là một chút, Urz nín thở mà lắng nghe những gì Damad nói. Damad lại liên thoắng nói tiếp. “Urz này. Rốt cuộc ông bạn có thứ gì để chứng tỏ mình là Tigrevurmud Vorn không? Liệu quay về Lâu đài Lebus thì có thể tìm ra được bằng chứng nào không?” Urz ra vẻ đầy khó khăn, anh yếu ớt lắc đầu. Damad cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Nếu mà Urz nói khác đi, có lẽ anh ta sẽ phải cân nhắc lại 1 lần nữa. “Ông bạn có thể là Tigrevurmud Vorn, cũng có thể là không. Hơn nữa, lại còn cái vụ mất trí nhớ nữa. Nếu mà động thủ chỉ chỉ vì mình lời nói của ông bạn thì quá ư là nguy hiểm. Như vậy chẳng khác gì che mắt lạc đà mà bỏ lại ngoài sa mạc cả.” Trước những lời mỉa mai đó, Urz cảm thấy có phần bị xúc phạm mà gườm gườm nhìn Damad. “Khó mà có thể tin được những lời đó lại phát ra từ miệng một kẻ vừa mới định giết tôi cách đây không lâu đấy.” “Vậy thì tôi sẽ hỏi lại một lần nữa. Ông bạn có thực sự là Tigrevurmud Vorn không?” Trước câu hỏi của Damad, Urz chỉ ngước mắt xuống như thể không thể nào tìm ra được câu trả lời. Người da nâu trẻ tuổi thở nhẹ 1 tiếng mà mỉm cười với Urz. “Tôi đã nói nhiêu quá ư? Không phải là tôi muốn đe dọa ông bạn đâu. Nếu như ông bạn không phải là Tigrevurmud Vorn thì đúng là tôi đã quá ngu xuẩn khi mà lại đi giết 1 người hoàn toàn không liên quan chỉ bởi vì nhầm lẫm. Mong được ông bạn thứ lỗi cho tôi vì chuyện đó.” Trước 1 Damad không hề tỏ ra chút bối rỗi, Urz chỉ thở dài. Trước mọi chuyện đang rối tung hết lên như vậy, anh chỉ còn cách thản nhiên hỏi lại. “Vậy thì anh muốn làm gì tôi đây?” “Tôi sẽ đưa ông bạn quay về Lâu đài Lebus.” Thấy Urz vừa hỏi vừa thủ thế, Damad dửng dưng đáp. “Không có bằng chứng rõ ràng nào hết, thế nên ông bạn vẫn là Urz, phụng sự cho Lebus. Tôi sẽ đưa ông bạn về Lâu đài và nhận 100 đồng bạc làm tiền công.” Urz bối rỗi nhìn chằm chằm vào người Muozinel trẻ tuổi, anh lắc đầu nguẩy nguẩy, ra chiều không hiểu. “Từ một người vừa mới còn tìm cách giết tôi, rốt cuộc điều gì khiến anh nghĩ là sẽ nhận được tiền chứ? Chắc chắn là tôi sẽ đưa chuyện này lên và tống anh vào tù thì có.” “Nếu là vậy, tôi sẽ để mặc ông bạn lại đây. Và rồi ông bạn sẽ phải tự mình tìm đường về Lâu đài, nếu như ông bạn nghĩ là mình sẽ làm được.” Damad nở 1 nụ cười đầy nhan hiểm. Về phần Urz, anh chỉ biết lầm bầm như thế vừa lĩnh phải 1 cú đau điếng. Dù khu rừng này chỉ cách Lâu đài Lebus tầm 1 ngày đường, đây không phải là nơi quen thuộc đối với anh. Thậm chí anh còn không rõ Lâu đài nằm ở hướng nào. Thêm nữa, cả thức ăn lẫn nước uống đều không có, vũ khí chỉ có mỗi một chiếc ná tự chế. Khó có thể tin được là Urz có thể một mình rời khỏi khu rừng này nổi. Thế nhưng, Urz vẫn không vì thế mà lơ là cảnh giác. Anh nhìn Damad với 1 ánh mắt đầy hoài nghi. “Bộ anh không nghĩ tới việc tôi sẽ không giữ lời hứa một khi tới được Lâu đài sao?” “Chuyện đó tính sau.Giờ thì ý ông bạn thế nào? Có chấp nhận lời đề nghị của tôi không?” Một làn gió thổi qua, khiến cho đống lửa bập bùng lay động, soi rõ khuôn mặt của 2 chàng trai. Urz không đáp lại ngay. Thế nhưng, chưa đầy chục giây anh đã đi tới quyết định cuối cùng. Vừa nhìn Damad, anh vừa thở dài, lần này là lần thứ 9 trong đêm nay. “Được rồi. Tôi sẽ để anh dẫn đường.” “Thỏa thuận là vậy nhé.” Thấy Damad cười phá lên mà nói như vậy, Urz mỉa mai nhìn sang người Muozinel trẻ tuổi. “Nhắc mới nhớ, anh nói anh là 1 lái buôn. Sự thực không phải là như vậy, đúng không?” “Nói gì thì nói, miễn là thỏa thuận được thì đương nhiên phải là 1 lái buôn đại tài rồi còn gì.” 1 con người lẻo mép tới tột cùng.Urz chỉ mỉm cười và trao thanh kiếm mình đang cầm lại cho Damad. Thế nhưng, không chỉ không nhận lấy, người Muozenel tóc đen trẻ lại còn đưa cả vỏ kiếm cho Urz. “Ông bạn cứ giữ lấy. Coi như là vật làm tin.” Dù không có kiếm, Damad vẫn còn cung và 1 con dao găm. Không phải là Urz không tự tin vào khả năng đánh cận chiến của mình. Kể cả là có chuyện gì ngoài dự liệu xảy ra đi nữa, anh vẫn tự tin là mình sẽ ứng phó được. “Được rồi. Vậy thì cứ như vậy mà làm cho tới nào chúng ta tới được Lâu đài.” Tiếp theo đó, sau khi gom nhặt lại đống củi rơi vung vãi, họ thay phiên nhau canh gác suốt đêm. Không ai có thể biết được khi nào sẽ có thú dữ xuất hiện. Thêm nữa, cũng cần phải có ai đó trông không để cho lửa tắt. Dù cho 2 bên có nghĩ về nhau thế nào đi nữa, họ vẫn phải chấp nhận hợp tác ở chốn này. . . Trong khi Urz và Damad còn đang tạm thời bắt tay nhau, ở một góc của Lâu đài Lebus, 2 người đàn ông đang nhìn nhau, mặt tái mét. 1 người là 1 Hiệp sĩ đang còn ở độ tuổi tráng kiện tên là Naum, ẩn dưới đôi mắt của anh ta có cái gì đó đầy nhọc nhằn. Người kia thì đã luống tuổi, tên là Lazarl, mái tóc trắng xóa được cắt vén cẩn thận, trên thân thể mảnh khảnh của mình là một bộ lễ phục của quan lại. Cả hai đều là những người Elizavetta đặc biệt tin cẩn. “Vanadis-sama chưa về sao?” Lazarl mặt nhợt nhạt lên tiếng hỏi. Naum chỉ mệt mỏi gật đầu. Chỉ riêng việc Elizavetta muốn đi ra ngoài thôi đã là chuyện hiếm gặp rồi. Thế nhưng, nếu mà trăng đã lên mà cô vẫn chưa về thì đây là lần đầu tiên không có tin tức gì báo lại. Đặc biệt lần này, cô còn mang Urz đi theo. Chuyện này một khi mà lan tới tai binh lính và người hầu trong Lâu đài là thể nào cũng sẽ có đủ thứ truyện bàn ra tán vào. Nghĩ tới cảnh đó thôi mà Lazarl và Naum chỉ muốn vùi mặt xuống lòng bàn tay mà thôi. “Có bao nhiêu người biết chuyện này?” “Tôi chắc chắn rằng chỉ có mình ngài, Lazarl-dono, và tôi thôi. Chúng ta vẫn còn có thể ra chỉ thị chi tiết cho những ai không biết...” Naum nghiêm nghị đáp. Giả dụ là, nếu như họ giải thích với lính gác cổng thành rằng “Vanadis-sama về bằng cổng khác” thì tạm thời đánh lừa được họ. Về phần đám nữ hầu cận coi sóc cho Elizavetta, họ chỉ việc nói là “Vanadis-sama có việc bận, hiện đang tạm nghỉ ngơi ở phòng khác”. Ở cương vị một Vanadis, Elizavetta thường hay phải giải quyết rất nhiều việc khẩn, cho nên các nữ hầu cũng đã quá quen với chuyện đó. “Vấn đề bây giờ là làm sao để tìm được Vanadis-sama...” Elizavetta không hề nhắn lại là cô định đi đâu. Đã có rất nhiều lần vì muốn được ở một mình, thành ra cô lại đi ra ngoài, và cả Naum lẫn Lazarl đều không dám gặn hỏi chủ nhân của mình. “Nếu như chúng ta cho nhiều người tìm kiếm, thể nào sẽ càng có thêm nhiều người nhận ra là Vanadis-sama không có mặt tại Lâu đài. Bằng mọi giá chúng ta không được để chuyện đó xảy ra.” Lazarl đồng tình với lời của Naum. “Thêm vào đó, lại đúng vào lúc này nữa.” Cổng thành đã đóng, trăng đã treo vắt vẻo trên bầu trời cao. Nhà nhà lúc này đều đã ăn tối xong xuôi. Lúc này mà điều quân đi thì thể nào cũng sẽ bị nhiều người chú ý. “Naum này. Liệu ngài có thể điều động được bao nhiêu binh lính mà không gây chú ý?” “Nếu như không muốn quá ầm ĩ thì chắc là tầm 50 người.” “Vậy thì đành phải vậy thôi. Liệu ngài có thể cho tập trung chừng đó người bất cứ lúc nào được không?” Nếu như mà đã biết được Elizavetta đang ở đâu, Naum và Lazarl có lẽ đã cắt cử binh lính đi ngay lập tức. Tuy nhiên, việc tung tích của cô không rõ ràng là 1 vấn đề đầy nhức nhối. Nếu như mà liều lĩnh điều động binh lính giữa đêm khuya, cả hai đều thừa hiểu rằng điều đó suy cho cùng cũng chỉ là công cốc mà thôi. “Hay là chúng ta sẽ hành động vào lúc bình minh?” “Chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc nhờ tới các ngôi làng lân cận. Có lẽ chúng ta có kiếm cớ là ‘Vanadis-sama đang đi vi hành, thế nhưng chúng ta đang có việc khẩn, cần ngài quay về Lâu đài ngay tức khắc’ chẳng hạn.” “Xem ra cũng chẳng còn cách nào khác nữa.” Naum vừa lần theo những vết nhăn trên mặt mình mà thở dài. “Dù gì đi chăng nữa... Ngài có đoán ra được chuyện gì đã xảy ra không, Lazarl-dono?” Naum nghiêm túc hỏi. Anh không chỉ muốn hỏi ý kiến của viên quan già. Naum còn muốn có 1 quan điểm chung trước 1 sự kiện xảy ra bất chợt như thế này. Lazarl cau mày lại. “Nhiều người sẽ cho rằng Urz đã bắt cóc Vanadis-sama.” “Vậy là ngài có ý kiến khác sao, Lazarl-dono?” Sau khi nghe Naum hỏi lại cho chắc chắn, miệng Lazarl méo xệch đi đầy khó chịu. “Đương nhiên là vậy, Đúng là Vanadis-sama có cảm tình với Urz thật. Thế nhưng, chủ nhân của chúng ta là một người thông thái trước tuổi. Kể cả là Urz có nói đi chăng nữa, chủ nhân không đời nào lại nghe theo mà bỏ đi được.” “Thật là mừng khi ngài nói như vậy.” Naum vừa nói vừa vuốt ngực mà thở dài nhẹ nhõm. Ý định thực sự của anh ta là, giả như ý kiến của anh lại trái ngược với ý kiến của viên quan già này cũng như toàn bộ bên quan lại trong Lâu đài, Lebus sẽ chỉ càng thêm phần rối loạn. Và cứ như thế, cả 2 người đợi chờ buổi sáng mà không thể nào chợp mắt nổi. Tới tận khi bình minh sắp lên thì Lôi Oa Thiểm Cơ, chủ nhân của họ, chợt quay về tới Lâu đài. Thay vì đi qua cổng chính dẫn tới thị trấn nằm ngay dưới tường thành của lâu đài, cô lại vào bằng cổng sau, được đặt ở một nơi kín đáo hơn. Nhận được tin, cả Naum và Lazarl đều vội vã chạy ra cổng sau đứng đón nữ Vanadis. Thế nhưng, cả 2 đều không thể nói được gì khi thoạt nhìn thấy bóng dáng của Elizavetta. Mái tóc đỏ của cô gái bù xù rối tung lên, chiếc váy tím của cô thủng lỗ chỗ, cổ lẫn tay áo đều bị rách toạc. Làn da trắng muốt của cô lấm lem bùn đất, đầy những vết thương. Thậm chí tới cả giày cũng không còn, cô chỉ đi chân đất. Tay cô nắm chặt lấy Hỗn Hung, Long khí của cô, mà kéo lê theo. Đôi mắt xanh và vàng của cô gái, dù nhuốm màu mệt mỏi, vẫn ánh lên 1 tia sáng cuồn cuộn đầy những cảm xúc mãnh liệt. Những ai mà nhát gan có lẽ đều không dám nhìn vào đôi mắt cô. Elizavetta chưa bao giờ để lộ ra một cảnh tượng thê thảm tới bậc này, cho dù là sau một trận chiến khốc liệt tới mấy đi nữa. Con ngựa cô đang cưỡi cũng bẩn thỉu không kém, ngay cả bờm cũng rối bù như một cái bàn chải cũ kỹ. Hơn chục chiếc mũ giáp được buộc vào yên cương bằng một sợi dây thừng nhỏ. Tất cả đều lem luốc và vỡ nát tựa như vừa được nhặt từ chiến trường mang về. Một số còn rúm ró như thể bị ai đó lấy búa đập vào. Và, cô gái quay về một mình, không có Urz đi theo. Cả Naum và Lazarl đều thẫn thờ không nói nổi được câu gì trước bộ dạng tàn tạ của Lôi Oa Thiểm Cơ. “--- Ta đã về.” Trước giọng nói lạnh thấu xương của Elizavetta, 2 người đàn ông mới bừng tỉnh lại. Không chỉ mỗi mình họ, từ lính gác cổng sau cho tới những binh lính vừa trông thấy hình bóng của nữ Vanadis tóc đỏ đều có chung 1 phản ứng. Tất cả đều không thể nào giấu nổi vẻ ngạc nhiên. “Tôi sẽ đi gọi thầy thuốc.” Vừa thay đổi sắc mặt và nói xong, Naum vội chạy đi tìm thầy thuốc ngay. Dù bản thân không cần thiết phải chạy đi tìm mà chỉ cần ra lệnh cho binh lính là đủ, anh ta quá bối rối nên mới làm vậy. “Chuyện gì đã xảy ra vậy...?” Giọng nói của viên quan già run lẩy bẩy. Cả người Elizavetta toát ra một bầu không khí tựa như 1 con thú bị thương, không phải là 1 thứ mà người khác có thể dễ dàng nói chuyện với được. Kể cả là vậy, với trach nhiệm là 1 bề tôi và mong muốn được an ủi nữ Vanadis khiến ông vượt qua được nỗi sợ hãi. Thế nhưng Elizavetta thay vì đáp lại chỉ nói. “Cho ngựa về chuồng nghỉ ngơi. Và – đánh bóng toàn bộ số mũ giáp này.” Khi quay sang nhìn đống mũ giáp, đôi mắt của Elizavetta hiện lên đầy những cảm xúc lẫn lộn. Thế nhưng, chỉ có mình Lazarl nhận ra điều đó. Viên quan già gầy go kính cẩn cúi đầu. “Xin vâng theo ý ngài.” Lazarl nghĩ lại. Cho dù tâm trí của ông ta vẫn còn đang hỗn độn đầy những điều muốn thắc mắc, ép chủ nhân đầy thương tích của mình giải đáp những điều đó không phải là điều một bề tôi nên làm. Thêm nữa, Elizavetta vẫn còn tỉnh táo. Trên nét mặt đang nhìn chằm chằm vào đống mũ giáp kia, có một chút gì đó đau thương, cho dù chỉ là thoáng qua. Lazarl bắt đầu ra lệnh cho người gác cổng và binh lính gần đó. Trong khi dõi theo quân sĩ, Elizavetta ưỡn ngực ra, kiêu hãnh bước đi. Lazarl đi theo sau cô. Nữ Vanadis tóc đỏ bước vào Lâu đài. Lazarl đoán rằng cô muốn về phòng ngủ. Sau đó, cuối cùng ông ta mới nhớ tới Urz. “Thế còn Urz thì sao?” Tại sao chàng trai trẻ lại không đi về cùng cô? “Urz không có mặt ở đây.” Sau khi đáp lại bằng 1 câu trả lời cụt ngủn, Elizavetta chợt chuyển sang 1 chủ đề khác. “Những chiếc mũ giáp đó ---” Cô vừa nói vừa quay lưng lại với viên quan già. Lazarl không nghe ra được hết, ông vội bước tới gần Elizavetta. “Những chiếc mũ giáp đó thuộc về những hiệp sĩ phục vụ trong Lâu đài. Có tất cả 15 cái, nhưng ta đã không thể nào mang được tất cả về.” Lazarl bối rối ngước lên nhìn Elizavetta. Ông không thể nào hiểu được ngay lời của chủ nhân mình. Hai người cuối cùng cũng tới được phòng ngủ của Elizavetta. Cầm lấy cái chuông đặt trên bàn trong phòng, cô rung mạnh lên. Nữ hầu vừa mới vội vã bước tới đã quên mất không cúi chào bên cánh cửa hé mở. Trước bộ dạng rách rưới không khác gì một bóng ma của chủ nhân mình, cô ta chỉ đứng sững lại, trông như thể sắp ngất xỉu bất cứ lúc nào. Dù thông cảm từ tận đáy lòng, Lazarl buộc phải lên tiếng thay cho chủ nhân mình. “Vanadis-sama đang mệt. Phiền cô chuẩn bị 1 xô nước nóng, 1 tấm khăn để lau người, 1 bộ quần áo mới và rượu có được không? Đã có người đi tìm thầy thuốc rồi.” Lời nói và thái độ bình tĩnh của Lazarl bằng 1 cách nào đó lại trấn an được nữ hầu cận. “Tôi- tôi sẽ cho chuẩn bị tất cả ngay.” Dù miệng lưỡi díu hết lại, nữ hầu kia vẫn kịp cúi đầu xuống và rời khỏi phòng ngủ. “Cảm ơn ngươi.” Sau khi cảm ơn viên quan già, Elizavetta kéo một cái ghế lại và ngồi xuống. “Lazarl. Ta hiểu là ngươi đang bối rối, thế nhưng xin ngươi hãy đợi một lát có được không? Như vậy thì ta đỡ phải tốn công giải thích cho cả Naum nữa. Như vậy nhé?” Sau một hồi lâu, Naum cũng xuất hiện cùng với thầy thuốc. Viên thầy thuốc là một bà lão nhỏ bé. Cả hai đều trong có vẻ là đã phải vội vả chạy tới đây, mặt họ mướt mồ hồi, miệng thở hổn hển. Sau khi Naum và vị thầy thuốc tới 1 chút, nữ hầu cận cũng mang theo khăn và một xô nước nóng vào. “Trước khi xem xét vết thương, ngài ấy phải thay quần áo đã. Thứ lỗi cho tôi, thưa Lazarl-sama, Naum-sama. Cảm phiền 2 ngài hãy ra ngoài đợi 1 lát có được không?” “Không vấn đề gì đâu.” Elizavetta nheo mắt lại mà nói. Là 1 Vanadis, cô không hề cảm thấy xấu hổ khi phải thay quần áo trước thuộc hạ của mình. Dù là như vậy, vẫn giữ nguyên thái độ của một người bề tôi, Lazarl lễ phép cúi đầu xuống. “Vanadis-sama. Như ngài thấy đấy, Naum đã phải tất tả chạy như vậy. Liệu ngài có thể để ngài Hiệp sĩ đây được nghỉ ngơi trong khi chữa trị vết thương không?” Elizavetta quay sang nhìn Naum đang lấy vạt áo lau mồ hôi mà mỉm cười. “Được rồi. Vậy thì hai người ra ngoài đi.” Lazarl nháy mắt ra hiệu cho Naum. 2 người cúi đầu chào và rời khỏi phòng ngủ của nữ Vanadis. Họ nhìn nhau mà thở dài một tiếng dài thườn thượt. Thực sự là cả 2 đều muốn được nghỉ ngơi 1 chút. Dù là chưa tròn 1 tiếng trôi qua kể từ khi Elizvetta quay về Lâu đài mà cả 2 người đã phải liên tục gặp hết bất ngờ này tới bất ngờ khác. Suốt cả 1 đêm không ngủ, may mắn là tâm trí của họ vẫn phần nào chịu đựng nổi. Để có thể lắng nghe câu truyện của Elizavetta, 2 người muốn ít nhất phải chuẩn bị tinh thần trước. Lazarl nhìn sang vị Hiệp sĩ đang ở độ tuổi tráng kiện đứng cạnh mình. “Naum. Ngài nghĩ chuyện quái quỷ gì đã xảy ra với Vanadis-sama vậy? Là cái thứ gì đi nữa, ngài ấy lại ra nông nỗi này.” Naum ra vẻ thẫn thờ mà lắc đầu nguây nguẩy. Kể cả là có bị hàng trăm người bao vây trến chiến trường, bằng ngọn roi Valitsaif, Long khí của cô, Elizavetta Fomina vẫn có thể dễ dàng dẹp tan được tất cả. Naum đã nhiều lần chứng kiến cô đứng đầu đoàn quân mà chiến đấu quyết liệt. Kể cả là mặc kẹt trong vòng xoáy của chiến trường dữ dội, là kiếm hay thương, là tên hay đá, tất cả đều không thể nào chạm nổi vào Elizavetta. 1 quang cảnh ác mộng vụt hiện lên trong tâm trí Naum. Vị Hiệp sĩ chợt nhớ lại về trận chiến cùng Legnica đối đầu với một toán hải tăc lớn trên thuyền vào khoảng mùa thu. Naum nhớ về con quái vật trắng dã đột ngột xuất hiện trên thuyền kỳ hạm của đám cướp biển. Con quỷ mà nữ Vanadis xứ Legnica, Alexandra Alshavi, hay Sasha, và Elizavetta đã đánh hạ. Trong trận chiến đó, sau khi tới được con thuyền Sasha đang đứng, đã bị thương nặng tới bất thường. Anh ta nghĩ rằng nếu có 1 thứ gì hay ai có thể khiến cho 1 Vanadis bị thương, chỉ có thể là một con quái vật như vậy. “Có chuyện gì vậy?” Naum sực tỉnh lại trước lời của Lazarl. Anh ta lắc đầu. “Thật là đáng buồn là bản thân tội lại thiếu trí tưởng tượng tới vậy. Tôi hoàn toàn không thể nào hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Thêm vào đó, chúng ta không còn cách nào khác ngoại trừ việc đợi chính Vanadis-sama lên tiếng.” Naum nói vậy là bởi anh sợ phải nhắc tới sự tồn tại của thứ quái vật đó. Không chỉ mình anh, mà đó cũng là cảm nghĩ chung của toàn bộ binh lính Legnica và Lebus tham gia trận thủy chiến đó. Dù mặt tái mét lại, Naum vội chuyển sang chuyện khác. “Tiện thể, số mũ giáp buộc trên yên cương của Vanadis-sama... tất cả đều thuộc về Hiệp sĩ của Công quốc chúng ta.” “Chắc chắn chứ?” Lazarl nhấn mạnh hỏi lại. Naum gật đầu. “Đúng vậy. Tạm thời tôi đang cho người dò hỏi xem có những Hiệp sĩ nào chúng ta không liên lạc được. Sợ rằng đến cuối ngày hôm nay cũng không tìm ra hết được.” “Tạm thời là cứ như vậy đi. Vanadis-sama có lẽ cũng sẽ nói tới chuyện đó.” Vào lúc đó, 1 tiếng nói từ trong phòng ngủ gọi 2 người đàn ông lại. Có vẻ là cuộc điều trị đã xong xuôi. Naum lịch thiệp gõ cửa, đợi Elizavetta đáp lại thì anh ta mới mở cửa. Elizavetta đã thay sang 1 bộ váy mới, hiện đang ngồi ở trên ghế. Một miếng vải trắng ở trên má cô, từ tay và vai cô thò ra một vài dải băng. Dù vẻ mặt cô vẫn tràn đầy ý chí, cô vẫn không thể nào che giấu cơn đau đớn. Cây roi đen, Long khí của cô, đã được quấn tròn lại và treo bên phải hông cô. Naum nheo mắt lại đầy nghi hoặc. Elizavetta vốn thuận tay phải, cô luôn treo Long khí của mình ở bên hông trái. Điều này không có nghĩa là cô không thể dùng được, thế nhưng như vậy thì sẽ khó khăn hơn. Thế nhưng, anh ta không dám hỏi thêm. Naum còn nhiều thứ nữa cần thắc mắc. “Vanadis-sama. Dù đã được băng bó như thế nhưng điều đó không có nghĩa là ngài đã khỏe được ngay đâu. Xin ngài hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Điều đó rất quan trọng để vết thương chóng lành.” Sau khi người thầy thuốc già nói và kính cẩn cúi chào, bà ta ra khỏi phòng cùng với nữ hầu. Giờ chỉ còn mình 3 người Elizavetta, Naum và Lazarl ở lại. “Thứ lỗi cho ta vì đã quay về quá chậm trễ, khiến cho 2 ngươi phải lo lắng.” Elizavetta thốt lên. Thế nhưng, giọng nói của cô không hề lộ ra chút hối hận gì hết. Cả vị Hiệp sĩ lẫn viên quan già đều cảm thấy phần nào nhẹ nhõm vì điều đó. “Vanadis-sama. Xin ngài hãy cho chúng tôi biết ngài đã làm gì, và chuyện gì đã xảy ra vậy?” Trước lời của Lazarl, Elizavetta bắt đầu thuật lại chuyện gì xảy ra sau khi cô đi ra ngoài cùng với Urz vào ngày hôm qua. Nữ Vanadis Mắt Cầu Vồng kể lại chuyện đám Hiệp sĩ xuất hiện và giương kiếm trước mặt Urz và cô trong khi 2 người đang đứng trước ngôi đền xập xệ cũ nát. “Bọn họ nói rằng ta đã thiên vị Urz và định lấy mạng cậu ta. Urz và ta cố thuyết phục họ, thế nhưng không thành công... Đầu tiên, 2 người bọn ta định chạy vào trong đền để trốn. Cùng lúc đó, bỗng có 1 con Rồng xuất hiện.” “Rồng ư?” Lazarl mở choàng mắt ra. Câu chuyện biến chuyển quá đột ngột tới khó tin. Dù Lazarl đã sống lâu gần gấp ba lần Elizavetta, anh ta vẫn chưa từng tận mắt chứng kiến 1 con Rồng bao giờ. Thế nhưng, vị Hiệp sĩ cũng tin rằng nếu không phải là một thứ gì đó cỡ như Rồng, khó mà có chuyện cô lại bị thương tới mức này. “Bọn ta đã giết được con Rồng, thế nhưng nền của ngôi đền không trụ được đã đổ sụp xuống. Ở dưới ngôi đền đó có 1 lối địa đạo, cả Urz lẫn ta đều rơi xuống đấy... Ta may mắn thoát ra được, nhưng lại để lạc mất Urz.” Sau đó, Elizavetta sau khi lên được tới mặt đất thì tìm thấy được ngựa của mình. Con ngựa chưa bỏ chạy, và phải nói là rất may là nó chưa bị làm mồi cho thú hoang. Elizavetta tới một ngôi làng gần đấy, ra lệnh cho trưởng làng đốc thúc người trong làng tới chỗ xác của toán Hiệp sĩ. Dù mặt trời đã lặn, trời dần nhá nhem tối, nữ Vanadis tóc đỏ hứa thưởng hậu nên cuối cùng cũng nhờ được dân làng đi. Có 1 lý do cho việc tại sao Eliazavetta lại hối hả tới vậy. Khi tới được ngôi đền mục nát, hầu hết số xác chết đã bị thú dữ và chim chóc cắn xé, để lại 1 cảnh tượng khủng khiếp trên cánh đồng cỏ. Không chỉ có mỗi sói, chồn và cáo, cả quạ và diều hâu cũng lao vào tranh nhau đống xác. Elizavetta yêu cầu người trong làng chuyển những cái xác đó đi, đợi tới bình minh thì mang đi chôn ở gần làng. Thế nhưng, cô giữ lại mũ giáp của họ, buộc tất cả vào yên ngựa và quay về. Thế nhưng, do một số bị đập nát vụn, cô không thể nào thu nhặt được tất cả. Câu chuyện của Elizavetta đủ khiến cho 2 người đàn ông già dặn kinh nghiệm phải nín lặng không nổi 1 lời. Dù giọng của cô gái hết sức bình thản, Naum và Lazarl vẫn cảm thấy được cơn giận dữ kìm nén trong lòng nữ Vanadis. Sau một hồi im lặng, Elizavetta mới nói tiếp. “Naum. Có phải là có 1 vài Hiệp sĩ biến mất từ trưa ngày hôm qua đúng không? Chính xác là 15 người.” “Chúng tôi hiện đang cho người điều tra. Vào cuối ngày hôm nay sẽ có kết quả.” Naum cố kìm nén nỗi kinh ngạc của mình lại và đáp. Dù chỉ có thể lập lờ trả lời với Lazarl, trước tình hình như thế này, vị Hiệp sĩ đành phải nói chắc nịch như vậy. Mọi chuyện càng sáng tỏ sớm càng tốt, cho dù chỉ là sớm hơn được 1,2 tiếng đi chăng nữa. “Sau khi xác nhận xong việc đó, ngài định sẽ làm gì tiếp...?” Lazarl dè dặt hỏi. Nếu như những gì Elizavetta nói là đúng, tất cả những người đó đều là những thuộc hạ làm phản dám chĩa mũi kiếm vào chủ nhân của mình. Không chỉ là bị xử tử tại chỗ, trong một số trường hợp ngay cả gia đình thân nhân cũng sẽ bị vạ lây. Trước câu hỏi của viên quan già, nữ Vanadis lánh mắt sang chỗ khác. Cô vừa đáp vừa ngắm nghía cánh tay phải của mình. “Họ đã hi sinh mạng sống của mình trong khi giao chiến với con Rồng, Cứ nói là như vậy đi. Cho chuẩn bị tiền bồi hoàn và trao lại mũ giáp cho gia đình họ.” “Điều đó...” Lazarl dè dặt. Nếu như một người cai trị luôn phải biết đưa ra quyết định thì, trái lại, quyết định của cô gái lại quá ngây thơ. Tuy nhiên, viên quan già không dám nói gì hơn. Đó là bởi vì đôi mắt 2 màu kia đang nhìn chằm chằm vào ông. “Người cho là sẽ có người không đồng tình với phương án này ư?” “Theo thiển ý của tôi, tôi e là tha thứ cho kẻ dám chĩa mũi kiếm vào chủ nhân của mình thì sẽ để lại 1 tiền lệ không tốt đẹp gì cho tương lai đâu.” Dù hơi hoảng, Lazarl vẫn cố phản bác lại. Thế nhưng, nữ Vanadis Mắt Cầu Vồng chỉ dửng dưng lắc đầu. “Lazarl, những gì ngươi nói quả thực không sai. Nhưng, thử nghĩ kỹ 1 chút đi. Đúng là ta đã nói rằng toán hiệp sĩ đó tỏ ra bất mãn trước cách ta đối xử với Urz, thế nhưng tại sao bọn họ lại chọn đúng lúc ta đi cùng Urz để mà ra tay động thủ chứ?” Trước lời của Elizavetta, cả Lazarl và Naum đều cau mày mà chìm trong suy nghĩ. Điều đó quả thực rất kỳ quái. Nếu như mà chọn lúc Urz chỉ có một mình thì bọn họ sẽ có được cơ hội để nhắm tới mạng anh bất cứ lúc nào có thể. “Ta tin là bọn họ lúc đó đã không còn tỉnh táo nữa. Thêm vào đó, còn có kẻ nào đó xúi giục nữa.” Điều này đồng nghĩa với việc có ai đó đã cám rỗ được những hiệp sĩ đó. Đó là kết luận cuối cùng mà 3 người cùng đồng tình. Naum nghiêm nghị nhìn sang Elizavetta. “Tôi xin hứa là sẽ truy tìm cho bằng được kẻ đó là ai.” “Mong là vậy. Lazarl, ngươi thấy như vậy thế nào?” Lazarl cũng gật đầu. Có kẻ đủ khả năng thao túng được cả hiệp sĩ. Thực tế chỉ có mình Elizavetta là có thể biết được chuyện đó. Nếu đã là vậy, cô cũng sẽ không chấp nhận bất cứ phản đối nào khác. Lazarl nghĩ như vậy. Sau đó, Elizavetta còn ra lệnh tìm kiếm Urz. “Ta không tin là Urz đã chết.” “Rõ. Tôi sẽ cho điều động binh lính lục tung ngôi đền cũ nát đó ngay.” Naum đáp. Không phải chỉ là vì nghĩa vụ của mình, vị Hiệp sĩ cũng có cảm tình đối với Urz. “Vậy thì, thưa Vanadis-sama, hôm nay xin ngày hãy nghỉ ngơi cho. Chúng tôi sẽ gánh vác mọi việc từ đây.” Nói tới đó, Naum và Lazard vừa định rời khỏi phòng thì Elizavetta gọi viên quan già lại. Dù Lazarl có vẻ băn khoăn, ông ta vẫn ở lại. “Lazarl. Ngươi có biết gì về cái tên Baba Yaga không?” “... Ý ngài muốn nói tới Baba Yaga trong truyện cổ tích và thần thoại ư?” 1 câu hỏi quá bất chợt như thể, hỏi sao Lazarl lại không hỏi lại mà không tỏ vẻ hoài nghi. Người thì bảo đó là 1 tinh linh, người thì lại nói đó là 1 tiên nữ, thậm chí 1 yêu quái. Còn có giả thuyết cho rằng Baba Yaga, dưới lốt 1 bà già, là kẻ thu nhặt linh hồn. Nghe nói là vào thời cổ xưa, Baba Yaga được dựng đền và thờ phụng như 1 vị thần. Người xưa cũng kể rằng Baba Yaga ban sức mạnh cho những ai tới cầu xin và, đáp lại, nguyền rủa họ. Dù sao đi nữa, Baba Yaga là 1 thực thể khác xa với con người. Trước những gì Lazarl nói, Eliavetta chỉ gật đầu, mặt lạnh tanh. “Đúng, chính là Baba Yaga đó. Có lẽ là vẫn còn nhiều ngôi đền cổ từng thờ phụng Baba Yaga ở Lebus. Liệu ngươi có thể điều tra những nơi đó được không? Càng sớm càng tốt.” Viên quan già ngày càng thêm phần bối rối. Đây không phải là lúc để lo tới chuyện đó/ “Ta biết ngươi muốn nói gì.” Elizavetta nói trong khi đoán những gì Lazard nghĩ qua vẻ mặt của ông ta. “Tuy nhiên, ta cần ngươi làm việc đó ngay. Hơn nữa, ta không thể giao việc này cho bất cứ ai được.” Dù giọng nói cô đầy uy quyền, thế nhưng Lazarl hiểu rằng đó không phải là 1 mệnh lệnh, mà là 1 lời đề nghị. Đôi mắt của cô gái chứa đầy những bực bội, nôn nóng và nuối tiếc. Viên quan già cảm thấy lời yêu cầu này của cô thực sự khẩn thiết tới mức nào. Ông ta thay đổi sắc mặt và đứng thẳng người lại. “Nếu mà Vanadis-sama đã nói như vậy, tôi sẽ đi điều tra ngay. Tuy nhiên, tôi cho là con số đền thờ đó sẽ không hề ít ỏi gì. Ngài muốn khi nào thì cần phải báo cáo lại?” Nói tới đó, Elizavetta thở dài khoan khoái. “Được rồi... Vào đêm mai đi. Sau đó, dựa vào đó mà ta sẽ quyết định phải làm gì tiếp theo.” “Xin vâng.” Lazarl cúi đầu và định rời đi, Thế nhưng, ông ta lại đổi ý và quay lại chủ nhân của mình. Viên quan già cũng có mối nghi ngờ riêng của mình, Ông ta cảm thấy bức bối khi mà chủ nhân của ông lại không hề nói hết mọi việc ra. Thế nhưng, cảm xúc của ông không thể là thứ đáng được đặt lên hàng đầu. Hơn thế nữa, ông ta vẫn còn điều muốn nói với cô. “Vanadis-sama. Cho dù đáng nhẽ ra tôi không cần phải nói điều này ra, thế nhưng tôi đã từng phụng sự trong Lâu đài này kể từ Vanadis-sama đời trước.” Elizavetta nhăn mặt, nhưng Lazarl vẫn nói tiếp. “Tôi hiểu rằng phàm là người cai trị, ai cũng sẽ có bí mật không thể nào tiết lộ cho thuộc hạ của mình, chỉ có thể giấu trong lòng mình. Và tôi cũng không định nói gì về việc che giấu là đúng hay sai. Thế nhưng, tôi chỉ mong ngài đừng quên là chúng tôi luôn ở đây vì Vanadis-sama.” Lộ rõ vẻ ngạc nhiên không che giấu nổi, Elizavetta nhìn chằm chằm vào viên quan già đang cúi đầu trước mặt mình. Nữ Vanadis tóc đỏ thả lỏng nét mặt mình đi, để lộ ra 1 nụ cười thoáng qua trên bờ môi. “Cảm ơn ngươi, Lazarl.” Lần này, viên quan già tóc bạc cúi chào và rời đi. Ra được tới hành lang, một cơn mệt mỏi trùm lên thân thể ông ta. Tuy nhiên, Lazarl vẫn cố chống thẳng lưng mà thẳng tiến. Vì người chủ nhân trẻ tuổi của mình, ông không thể nào than phiền được. Một cảm giác đầy cay đắng tràn đầy tâm trí Lazarl. Ông cần phải nghĩ xem phải giải quyết việc toán Hiệp sĩ tấn công Elizavetta và Urz như thế nào. 15 người mất mạng, không phải trong chiến tranh mà là vì mâu thuẫn cá nhân. Kể cả là có giấu diếm được vài ngày đi nữa thì mọi chuyện rồi cũng sẽ bị lộ ra. Bảo họ đã bị Rồng giết chết dễ liệu có ai tin không? Điều mà Lazarl e sợ nhất là người ta sẽ bàn tán rằng Elizavetta quá ưu ái Urz tới độ cho giết cả những hiệp sĩ tỏ ra hiềm khích với Urz. Kiểu gì cũng sẽ có 1 vài người muốn tìm ra sự thật. Nhiều người khác thậm chí còn sẽ tự thuê dệt ra đủ thứ lời đồn đại theo ý mình. Lazarl đã ở trong Lâu đài đủ lâu để biết được điều đó. Nếu như biến chuyện này thành 1 cuộc cãi lộn giữa Urz và toán hiệp sĩ, việc đó sẽ được thu xếp rất nhanh chóng, nhưng lại không được tự nhiên. Kể cả là Urz có tài bắn cung xuất chúng tới mấy đi nữa, khó mà có chuyện anh lại có thể đối đầu với 15 người mà thắng nổi. --- Thêm vào đấy, nếu là như thế thì Urz sẽ không còn có thể ở lại Lebus được... Mới có 10 ngày trôi qua kể từ khi Urz chính thức tới sống tại Lâu đài Lebus. Đối với hầu hết mọi người ở đó, anh là một người lạ. Không cần nói cũng biết mọi người sẽ thông cảm cho Urz hay là cho toán hiệp sĩ kia hơn. Lazarl phải nghĩ ra được 1 câu chuyện nào đó để cho gia đình của những hiệp sĩ kia cũng như những người trong lâu đài không oán hận Elizavetta và Urz. “Trong tình huống xấu nhất, có khi Urz sẽ phải chịu cảnh lưu đày...” Nếu như Elizavetta bị đổ tội lên đầu, Lazarl quyết định sẽ để cho Urz phải gánh chịu. Elizavetta có thể sẽ không thể quyết định được. Naum sẽ trù trừ. Do đó, ông ta phải làm việc đó. Lazarl không ghét Urz, thế nhưng nếu là vì Elizavetta, ông ta sẽ không ngại ngần gì lấy chàng trai tóc đỏ ra thế mạng. --- Nếu có thể, ta cũng không hề muốn chuyện này. Thế nhưng, liệu Urz còn sống không? Nếu còn, vậy thì cậu ta đang ở đâu...? Giấu kín mỗi mối lo âu suy nghĩ trong lòng, Lazarl bước dọc theo hành lang lâu đài. . Chỉ còn một mình ở trong phòng ngủ, Elizavetta nằm dài trên chiếc giường của mình. Khuôn mặt của cô gái không còn vẻ uy nghiêm của 1 Vanadis trước thuộc hạ của mình như ban nãy nữa. Giờ đây, đó chỉ còn là khuôn mặt của một cô gái kiệt sức. “--- Để việc này chồng lên việc khác phiền toái thật.” Ngực cô vẫn thổn thức trước những lời của Lazarl. Cô vẫn không kể cho ai biết về Baba Yaga. Cô sợ rằng nếu như nói chuyện đó ra, chưa chắc sẽ có ai tin, có khi lại còn khiến cho mọi người thêm phần rối tung lên. Thế nhưng, đó vẫn chưa phải là tất cả. Đó là vì cô còn quyết tâm muốn tiêu diệt Baba Yaga bằng chính đôi tay mình. Đôi mắt Cầu Vồng, điểm nổi bật nhất của Elizavetta, vẫn sáng bừng lên thèm khát được chiến đấu. Thêm nữa, cô còn 1 lý do nữa. Elizavetta khẽ nghiêng đầu sang 1 bên. Đôi mắt 2 màu của cô cùng hướng về cánh tay phải. Ánh mắt cô chứa đầy sợ hãi, bồn chồn và tiếc nuối. Cô không muốn ai biết về cánh tay phải này. Khi mới nhận được, cô đương nhiên đã nghĩ rằng đó là 1 thứ sức mạnh bí ẩn và đáng sợ. Thế nhưng, cho dù cô đã nói rằng cô sẽ không dựa dẫm vào thứ sức mạnh đó, tất cả chỉ là dối trá. Khi giao đấu với nữ Vanadis Eleonora Viltaria, hay Ellen, của xứ LeitMeritz, hay là khi đối đầu với con quỷ Torbalan, cô đã phải dùng tới sức mạnh của cánh tay phải. Đặc biệt là với Ellen, nếu như là so sức mạnh từng đòn tấn công thì cô tin tưởng là mình sẽ không thể nào thua. Cô cũng không thể nào tưởng tượng được nổi đó còn là 1 thứ đáng ghê tởm tới vậy. Cô đã từng nghĩ tới việc thà cắt bỏ cánh tay phải đi, thế nhưng, sau khi suy nghĩ lại, cô đã từ bỏ ý nghĩ đó đi. Làm như vậy thì cũng không có gì đảm bảo là cô sẽ được giải thoát khỏi lời nguyền kia. Giả sử như sau khi cắt bỏ cánh tay phải đi, lời nguyền lại truyền sang cánh tay trái thì cô sẽ không bao giờ có thể đánh bại nổi Baba Yaga. Bàn tay phải của Elizavetta theo thói quen vươn tới Hỗn Hung đang đeo bên hông. Nữ Vanadis tóc đỏ vừa chợt nhận ra điều đó vội thò tay trái ra mà nằm lấy ngọn Long khí. Nếu như muốn giết cô, chẳng phải khi cô mệt mỏi thương tích đầy người là cơ hội hoàn hảo để hành động sao? Chưa hết, mụ quỷ già kia vẫn chưa xuất hiện thêm 1 lần nào trước Elizavetta cho tới tận lúc này. Kể cả là lúc cả 1 đêm không ngủ ở ngôi làng vào ngày hôm qua, hay là khi chờ đợi bình mình tới để quay về Lâu đài, nữ Vanadis tóc đỏ vẫn không thể nào xua tan đi nỗi bất an của mình. Chỉ nghĩ tới việc những người dân làng hay binh lính ở trong Lâu đài đều có thể bị Baba Yaga điều khiển và tấn công cô như toán hiệp sĩ kia là cô đã không thể nào lơ là cảnh giác được. Tới tận cả bây giờ cũng vậy. Cho dù cô đang mệt mỏi tới độ chỉ muốn ngủ thiếp đi, mọi cảm xúc của cô vẫn căng lên như dây đàn, ý thức của cô vẫn hết sức tỉnh táo. Cô sẵn sáng hành động bất cứ lúc nào cô có thể bị tấn công. Dù cảnh giác tới vậy, cô vẫn quyết định dừng chân tại 1 ngôi làng, cũng như quay về Lâu đài Lebus. Đó là bởi vì cô vẫn còn nhận thức được mình là nữ Vanadis cai quản Lebus. Không thể nào tổ chức một tang lễ cho những hiệp sĩ kiam cô không thể nào hành động mà không gặp mặt Naum và Lazarl được. Thêm vào đó, kể cả là khi họ đã bị mụ quỷ già thao túng, cô cũng sẽ sẵn sàng tự mình ra tay với tư cách là chủ nhân của họ. Thế nhưng, may mắn là tới giờ vẫn chưa có chuyện gì xảy ra. Hay, có lẽ đó là bởi đòn tấn công của cô vào mụ quỷ ở lối địa đạo đó? Cô đã không thể nào cứu Urz, thế nhưng rõ ràng là Long Thuật của cô đã đánh trúng. Cho dù lạc quan quá cũng không kém phần nguy hiểm. Có lẽ bây giờ Baba Yaga cũng đã dưỡng thương xong xuôi. Chính vì lý do đó mà cô mời nhừ Lazarl điều tra ngôi miếu cũ kia. Dù không biết Baba Yaga ở đâu, cô không còn cách nào khác ngoài xem xét những nơi mà mụ ta có thể trú lại. Thay vì Naum, cô lại nhờ tới Lazarl là bởi cô cho rằng viên quan già phù hợp với việc này hơn. Thế nhưng, còn 1 lý do nữa là bởi cô ngại không muốn nhờ tới Naum. Naum đã tận mắt chứng kiến con quỷ trắng Torbalan trong trận thủy chiến với đám hải tặc. Đương nhiên, anh ta không thể nào biết được cuộc nói chuyện giữa Elizavetta và Torbalan. Đó là vì vào lúc đó, chỉ có mình cô, Sasha và Torbalan ở trên kỳ hạm của phe cướp biển. Kể cả là tai có thính tới mấy, khó mà có chuyện cuộc nói chuyện của họ có thể vượt qua bãi chiến trường đầy những thanh âm của vũ khí và sóng biển gầm thét mà tới được Naum. Dù là thế, Elizavetta vẫn cảm thấy ngần ngại không muốn hỏi nhờ Naum. Đột nhiên, cô nhìn thấy có cái gì đó sáng lên ở khóe mắt mình. Ngọn roi đen trong tay trái của cô chợt sáng lên nhợt nhạt, như thể muốn Elizavtta vui lên. Lờ mờ hiểu được những gì Long khí muốn nói, Lôi Oa Thiểm Cơ cười khúc khích. Valitsaif không dùng tới lời nói, mà là bằng thứ ánh sáng như muốn xoa dịu cho cô. “Cảm ơn nhé, Giờ thì ta ngủ 1 chút đây.” Elizavetta lặng lẽ nhắm mắt lại. Nếu như có nguy hiểm, Hỗn Hung sẽ báo lại cho cô ngay. Giờ này đối phương vẫn chưa có động tĩnh gì, đáng nhẽ ra cô nên nghỉ ngơi hơn là lo nghĩ. 1 hồi lâu sau, cô bắt đầu thở đều đều mà đi vào giấc ngủ. . . Một căn phòng tối om không có một chút ánh sáng. Tại đó, có 2 bóng người giữa bầu không khí khô khốc. Bóng người đầu tiên thuộc về 1 lão già nhỏ thó khoác trên người một tấm áo choàng đen. Y đang ngồi ở chính giữa căn phòng có phần chật chội mà không nhúc nhích một chút nào. Mắt của hắn nhắm nghiền, như thể đang ngủ hoặc là chìm trong suy ngẫm. Bóng người còn lại là một người trẻ tuổi tầm thước. Hắn ta quàng 1 tấm khăn xanh lá trên mái tóc đen cắt ngắn, thõng xuống cả vai, bên ngoài mặc một bộ đồ dày cộp với lông thú ở cổ và tay áo. Hắn đang dựa lưng vào tường, tay trái cầm 1 túi da nhỏ. Thi thoảng hắn lại thò tay vào túi, lấy một cái gì đó ra và rồi mỉm cười mà đưa lê mồm. Đó là 1 đồng xu bằng vàng. Dễ dàng như ăn một miếng bánh, gã trẻ tuổi nhai đồng xu rồi nuốt chửng. Lão già có tên là Drekavac. Gã trẻ tuổi là Vodyanoy. Cả 2 thoạt nhìn thì trông giống con người, thế nhưng thực tế không phải là vậy. Nếu có ai băn khoăn không rõ tại sao chúng lại có hình dạng con người, đó là bởi vì như vậy vẫn là thuận lợi nhất. Rốt cuộc thì con người vẫn là giống loài đông đúc trên mặt đất này. “Đã tìm ra được hắn ta chưa?” Vừa nuốt một đồng vàng nữa, Vodyanoy lên tiếng hỏi Drekavac. Kẻ mang hình dáng lão già kia không hề đáp lại. Vodyanoy nhún vai, lại lấy thêm 1 đồng xu nữa từ chiếc túi da. Không khí bên trong căn phòng chợt vần vũ xoay chuyển dù cho không hề có gió. Nhanh chóng tống đồng xu vào mồm, gã trẻ tuổi quay sang nhìn về một điểm. Cả lão gài cũng mở mắt ra. Bóng tối lẩn lút trước ánh mắt 2 người lặng lẽ tách ra, một bóng người xuất hiện như thể bị ném bay ra. Đó là một mụ già nhỏ bé, mặc áo choàng đen, tay cầm 1 cây chổi xập xệ. Tấm áo choàng của mụ ta trông như một tấm giẻ cũ kỹ thủng lỗ chỗ, đầu chổi xơ xác như thể bị 1 con thú nhai nghiến. Tới cả hơi thở dưới mũ choàng cũng hổn hển không ra hơi. “--- Ồ, xem này.” Vodyanoy mở choàng mắt ra nhìn mụ già đang quỳ dưới đất. Dù Drekavac không nói điều gì, ánh mắt của hắn ta vẫn lộ rõ đầy kinh ngạc. “Xem ra bà vừa được 1 trận đòn ra trò đó, Yaga-baasan ạ.” Vừa uốn lưỡi, Vodyanoy nhe răng cười mụ già – Baba Yaga. Baba Yaga không đáp lại ngay, chỉ tìm cách điều hòa lại nhịp thở. Trong khi 2 kẻ kia nhìn, mất tầm vài chục giây mụ già mới đứng dậy nổi. Thoạt trông thấy cảnh đó, Vodyanoy vội co rúm người lại. Nếu mà là Baba Yaga mà hắn ta quen biết, chắc chắn hắn cũng sẽ được ăn cán chổi không thương tiếc ngay lập tức. Thế nhưng, mụ già kia chỉ liếc nhìn Vodyanoy rồi ngồi sụp xuống, tay vẫn nắm lấy cây chổi. Mụ ta nói trong khi gãi gãi sống mũi khoằm khoằm của mình. “Trời ơi. Lần này ta lại không biết phải đáp lại ra sao. Người nhìn thấy ta lúc này ra sao rồi đó.” Dù Vodyanoy cảm thấy phản ứng của mụ ta có phần bất ngờ, hắn vẫn lên tiếng thắc mắc. “Chủ nhân hiện tại của Hỗn Hung lại mạnh tới vậy sao?” Ánh mắt của mụ quỷ già liếc xéo sang 2 kẻ đồng đảng của mình dưới lớp mũ áo choàng. “--- [Cung] đã ở đó.” Một đợt sóng kinh ngạc lặng lẽ khuấy động trong bóng tối. Vodyanoy thiếu chút nữa đánh rơi cái túi da, Dreakavac thì hơi chuyển mình 1 chút. “Chẳng phải hắn ta đã chìm nghỉm dưới đáy biển rồi sao?” “Ta vẫn cho là hắn ta còn sống ở đâu đó, cơ mà... Vậy là hắn ta đang ở ngay Lebus hử.” Giọng của gã trẻ tuổi đầy ngạc nhiên, về phần kẻ già hơn thì trên môi hắn ta hiện ra 1 nụ cười có phần nào đó giống ngưỡng mộ. Đợi cho 2 kẻ lắng xuống, Baba Yaga liền cúi đầu với Drekavac. “Xin lỗi, Dreakavac. Ta nhỡ để con Rồng của ông chết mất rồi.” Con Rồng Hai Đầu mà Baba Yaga để ở dưới ngôi đền để đối đầu với Urz và Elizavetta vốn thuộc về Dreakavac. Nếu như không có Urz ở đó, có lẽ nó đã ăn tươi nuôt sống Elizavetta. Dreakavac đáp lại đầy dửng dưng như không. “Không. Chỉ cần biết là [Cung] còn sống là quá hời rồi. Thế nhưng, khó mà tin được là một người tầm cỡ như Baba Yaga đây lại có thể bị thương trầm trọng tới vậy.” “Ta đã hoàn toàn che giấu đi sự hiện diện của mình. Cứ tưởng hắn ta chỉ là 1 tên nhóc người ranh cho tới khi hắn ta đánh hạ được con Rồng Hai Đầu. Không thể nào... Hay là hắn ta đã mất hoàn toàn trí nhớ về [Cung].” “Nhân tiện, bà không mang [Cung] về đây được à?” Thấy Vodyanoy hỏi vậy, Baba Yaga khó chịu khịt mũi. “Ta đã cố rồi, ai dè [Roi] lại chọc gậy bánh xe... Thành ra hăn ta bị rơi xuống ở đâu đó rồi.” “Tiếc ghê.” Vodyanoy lầm bầm, không hề tỏ ra là tiếc nuối. Hắn tung 1 đồng tiền vàng lên trời. Gã trẻ tuổi ngước mắt lên và há to miệng ra. Đồng xu vạch thành 1 đường cong trên không, chuẩn bị chui tọt vào miệng của Vodyanoy. Vừa đúng lúc sắp đớp lấy đồng vàng, Vodyanoy mở to mắt ra. Y nhanh tay tóm lấy đồng xu đang sắp sửa rơi vào miệng. “Đừng có đùa tôi thế chứ? Sigh, cẩn thận không bao giờ là thừa thật.” Thốt lên đầy khó chịu, Vodyanoy xòe tay ra. Thay vì là vàng, trong tay hắn ta lại là 1 đồng xu bằng đồng. Baba Yaga trong nháy mắt đã tráo 2 đồng xu với nhau. Mụ quỷ già gượng gạo nhìn về hướng khác, tay vuốt ve đầu chổi. Ra vẻ như không hề quan tâm tới cuộc trả treo giữa 2 bên, Drekavac lên tiếng. “Vậy từ bây giờ bà định làm gì đây, Baba Yaga?” Dừng tay sờ mó cây chổi, Baba Yaga đáp. “Đầu tiên, tôi sẽ nghỉ ngơi dưỡng thương. Tiếp đó, tôi sẽ giết [Roi], sau đó mới tính tới [Cung]. Tôi đã nói từ đầu rồi, có [Cung] có cái gì đó rất quái lạ. Tôi muốn theo dõi tình hình 1 thời gian đã.” “Vậy ra bà định giết luôn chủ nhân của Hỗn Hung hở. Cứ tưởng là lão bà còn định chơi đùa thêm 1 lúc nữa đó.” Vodyanoy ngạc nhiên nhìn sang Baba Yaga. “Đó là ý định ban đầu của ta, thế nhưng với [Cung] đang ở đây... Dù nói là giết, nhưng ta vẫn còn phải xem xét tình hình ra sao trong mấy ngày nữa mà.” Baba Yaga khẽ gõ nhẹ vào cây chổi. Vừa nãy còn như một đống rơm bị ai đó giẫm cho nát bương, đầu cây chổi chợt biến về hình dạng ban đầu của nó. Gật đầu thỏa mãn, mụ quỷ già quay sang nhìn 2 kẻ già trẻ. “Drekavac, Vodyanoy. 2 người định làm gì vậy?” “Nếu như tìm ra được [Cung], tôi sẽ giúp bà. Suy cho cùng thì Vanadis vẫn luôn 1 đối thủ đầy phiền toái.” Xem ra đã ăn hết vàng, Vodyanoy đáp trong khi dốc ngược cái túi da xuống. Drekavac lại nhắm nghiền mắt lại. “Tôi đang bận tìm kiếm 1 thứ. Có gì 2 người cứ tự quyết.” “Như vậy liệu có ổn không? Dù sao thì giữa tôi và ông vẫn luôn có quan điểm đôi phần khác nhau về [Cung] mà.” Nói như thể để chắc chắn, Baba Yaga nhìn Drekavac. Mắt vẫn nhắm chặt, lão già điềm tĩnh đáp lại. “Baba Yaga, quan điểm của tôi thế nào, từ trước tới nay vẫn vậy. Vì thế, không việc gì bà phải quan tâm.” “Được thôi. Vậy thì hẹn gặp lại.” Baba Yaga vung chổi lên. Gió lai nổi lên trong bóng tối, vạt áo choàng của Dreakavac khẽ rung động. Và rồi, trước khi gió lại lặng xuống, hình bóng của mụ quỷ già đã hoàn toàn biến mất. . . Nếu như muốn nhắc tới quý tộc Zhcted nào căm ghét Elizavetta Fomina nhất, không thể nào không nói tới Orgelt Kazakov xứ Polus. Dù, vì 1 số lý do, Ellen – Ngân Quang Thiểm Cơ – vẫn luôn thù địch với Elizavetta, cô ta vẫn chưa là gì so với Kazakov. Bá tước Kazakov năm nay 35 tuổi. Tóc nâu cắt ngắn, râu dài rậm rạp bao quanh gò má tới tận cằm. Dáng người vạm vỡ, lưng dài vai rộng. Đôi mắt sắc sảo, ẩn giấu trong đó 1 ý chí đầy gan dạ. Thực tế, Kazakov nổi tiếng là 1 chiến binh trước cả khi được thừa hưởng tước vị và lãnh địa. Vũ khí mà ông ta dùng không phải là kiếm hay thương, mà là 1 cây chùy. Mỗi khi cánh tay to lớn của Kazakov vung cây chùy xuống, giáp trụ bẹp rúm, thịt nát xương tan. Một người luôn đứng trước toàn quân với cây chùy của mình, người ta vẫn luôn kính sợ mà gọi ông ta là “Kazakov đẫm máu.” Có rất nhiều lý do cho việc tại sao Kazakov lại ghét cay ghét đắng Elizavetta, thế nhưng nguyên nhân lớn nhất là bởi cặp mắt 2 màu của cô. Hắn ta luôn cảm thấy khó chịu trước những ai có Mắt Cầu Vồng. Có thể nói nguyên do là từ một nỗi sợ mang tính dị đoan, cũng như cảm giác muốn tránh né trong thân tâm. Một lần, Kazakov đang đi thị sát lãnh địa thì y bắt gặp 1 cô gái với Mắt Cầu Vồng tại 1 ngôi làng. “Quỷ dữ đã nguyền rủa nhà ngươi. Bằng không thì chẳng đời nào lại có người ra đời với con mắt dị hợm kia.” Bá tước Polus khổng lồ toan giết chết cô gái ngay khi thốt lên như vậy. May nhờ có thuộc hạ ở bên cạnh cố gắng khuyên can mãi, Kazakov mới dè dặt cất kiếm lại vào bao. “Ta sẽ không giết con bé kia. Thế nhưng, phải bán nó với toàn bộ gia quyến làm nô lệ.” Xem ra hắn ta thấy chỉ đuổi cô gái ra khỏi lãnh địa mình thôi vẫn là chưa đủ. Đám thuộc hạ không thể làm gì hơn, hơn nữa chuyện cũng chỉ xảy ra tại 1 ngôi làng nhỏ. Sự việc này đã gây nên rất nhiều tranh cãi, thế nhưng Vua Victor lại không hề lên tiếng. Đối với tầng lớp quý tộc, ai cũng có quyền tự quản thúc trong chính lãnh địa của mình. Tất cả những thứ gì thuộc trong lãnh địa của 1 quý tộc đều thuộc vào tay người đó. Trừ phi là cố tình gây phương hại tới Vương quốc, Hoàng gia không thể nào can thiệp được tới quyền cai trị của họ. Tuy nhiên, nghe đồn là Vua Victor đã bí mật tìm ra gia đình đó trước khi họ bị đem ra khỏi Zhcted và cho họ sống ở một lãnh địa khác. Vì Vua Victor chưa hề nói gì về chuyện này cho nên cũng không có ai biết rõ được đây là thật hay giả. Dù sao đi nữa, có rất nhiều tỏ ra không đồng tình với hành động của Kazakov, thế nhưng số người ủng hộ cũng không hề nhỏ. Ngay cả cha của Elizavetta, Rodion Abt, từng là bạn của Kazakov, cũng nằm trong số đó. Khi Rodion phạm tội, để rồi toan bỏ chạy mà bị Ellen giết, Kazakov thay vì căm ghét nữ Vanadis tóc bạch kim lại đổ hết lên đầu Elizavetta. “Rodion phạm tội, kiểu gì cũng sẽ bị xử phạt đích đáng. Cơ mà chẳng phải chính đứa con gái Mắt Cầu Vồng mới là người khiến ông ta phạm tội?” Đương nhiên, không có ai đồng tình với điều đấy, thế nhưng Bá tước Polus vẫn một mực bám vào niềm tin đó. Với 1 Kazakov và tính tình như vậy, sự tồn tại của nữ Vanadis Mắt Cầu Vồng Elizavetta là 1 cái gai trong mắt. Đó là còn phải kể tới cả việc Polus, lãnh thổ do y cai quản, lại còn nối liền với Lebus. “Thời Vanadis trước đâu có như thế này chứ.” Thêm vào đó, gần đây lại có thêm chuyện khiến Kazakov càng thêm giận dữ. Trong khi Công tước Bydgauche Ilda Krutis điều quân, ông ta đã bị Ellen và Elizavetta cản đường lại. Là 1 quý tộc với lãnh địa nằm tại miền Bắc của Zhcted, có thể nói rằng không có ai tại đây lại chưa từng giao hảo với Ilda. Đương nhiên, cả Kazakov cũng ra sức xây dựng quan hệ với ông ta, tuy nhiên cách suy nghi của Kazakov về Ilda lại có phần phức tạp. Kazakov đã 35 tuổi, Ilda thì cũng 34. Cả 2 đều thuộc cùng 1 thế hệ. 1 phầ là bởi lãnh thổ của 2 bên cũng gần nhau, Kazakov không khỏi để tâm tới Ilda suốt bấy lâu nay. Tuy nhiên, giữa 2 bên lại có 1 sự khác biệt rõ ràng. Ilda là 1 Công tước, cai trị 1 vùng Bydgauche rộng lớn. Kazakov chỉ là 1 Bá tước, Polus còn chưa bằng được 1 nửa của Bydgauche. Thêm nữa, Ilda lại còn có quyền kế vị. Đương nhiên là Kazakov không có được điều đó. Đó là 1 thứ không bao giờ có thể thay đổi nổi. Chính vì vậy, Kazakov đã tự nhủ là phải vượt qua Ilda về tất cả những thứ khác. Đó là lý do tại sao y lại dùng chùy làm vũ khí, do biết rằng không thể nào bì kịp với Ilda nếu là thương hay kiếm. Trên chiến trường, Kazakov đã dành được rất nhiều chiến tích, đến độ có được cái biệt danh đáng sợ kia. Thế nhưng, nếu là chiến công thì Ilda cũng không chịu thua kém ai. Không chỉ là võ nghệ cao cường, ông ta còn được binh lính hết mực tin tưởng cũng với tài thao lược tuyệt vời. Chính Ilda là người luôn được mọi người ngưỡng mộ. Tất nhiên, ngay cả Kazakov cũng ngưỡng mộ Ilda, thế nhưng ẩn sâu trong đó còn có 1 cảm giác cay đắng nữa. Chính vì luôn giấu điều đó trong lòng mà Kazakov lại không khỏi thêm phần bức bối trước tin Ilda bị Elizavetta đánh bại. “Theo như những gì ta được biết, chẳng phải Ngài Ilda điều quân là bởi thuộc hạ của mình bị đầu độc sao? Tại sao lại đi ngăn không cho ông ta tới đánh 1 kẻ hèn nhát như vậy chứ? Con khốn Mắt Cầu Vồng bẩn thỉu đó.” Những lời cuối cùng của Kazakov tràn đầy những cảm xúc bừng cháy, tới độ y đã nghĩ tới việc gom quân lại mà tiến đánh Lebus. Như đã nói, Polus nối liền với Lebus. Việc điều quân không có gì là khó khăn. Thêm vào đó, nếu như Ilda thường là người giảng hòa giờ thì đang ở Kinh thành Silesia, không thể rời đi được do còn đang chờ phán xét. Bên cạnh Ilda, nếu có ai hỏi còn ai có đủ quyền lực để làm người hòa giải cho các quý tộc ở vùng lân cận thì chắc hẳn chỉ có Vanadis xứ Legnica và Vanadis xứ Osterode. Thế nhưng, từ khi Legnica để mất Alexandra Alsahvin, tới tận bây giờ vẫn chưa có Vanadis nào thay thế. Nữ Vanadis cai quản Osterode là Valentina Glinka Estes với biệt danh “Hư Ảnh Huyễn Cơ”, thế nhưng vốn dĩ cô ta luôn có thể trạng yếu đuối, khó có ai tin được là cô ta sẽ chủ động đứng ra đi hòa giải được. Thêm vào đó, lại còn phải kể tới khoảng cách nữa. Y chỉ việc kết thúc mọi việc trước khi cô ta kịp can dự là xong. Thế nhưng, dù đã nghĩ tới tận như vậy nhưng Kazakov vẫn còn do dự. Là lãnh chúa của Polus, đương nhiên không dễ gì ông ta lại đi điều động binh lực chỉ vì ghét ai đó. Thêm nữa, đối phưng lại là 1 trong 7 Vanadis của Zhcted. Ngoài ra, ông ta còn hiểu rằng Mắt Cầu Vồng không bị kỳ thị ở Lebus. Với tình thế như vậy, Kazakov chỉ biết ấp ủ cơn thịnh nộ đơn phương của mình qua suốt mùa đông. Đúng lúc đấy, một người đã tới gặp Kazakov. “--- Meyer Tyurina?” Nghe tới cái tên của người khách đột ngột xuất hiện kia, Kazakov cau mày. Y chưa từng nghe tới cái tên này bao giờ. Tay người hầu vừa mới thông báo có khách chìa một bức thư ra cho Kazakov. “Đây là thư từ Ngài Meyer. Ngài ấy nói rằng Đức Ngài Công tước Bydgauche đã tin tưởng nhờ ngài Meyer gửi bức thư này.” Dù cảm thấy nghi hoặc trong lòng, Kazakov vẫn nhận lấy bức thư và xem xét niêm phong. Đây đúng là con dấu của gia tộc Công tước Bydgauche. Cẩn thận gỡ bỏ dấu niêm phong ra, Kazakov lướt qua bức thư bên trong. “Đây đúng là nét chữ của Đức ngài Công tước.” Nếu đúng là Ilda Kurtis giới thiệu, thì Kazakov buộc phải ra đón tiếp. Sau khi bảo người hầu dẫn Meyer vào phòng khách, Kazakov chỉnh sửa trang phục lại cho thật ngay ngắn rồi mới bước ra tiếp khách. Đó là một người đàn ông nhỏ thó. Nhìn mặt thì trông người này cũng phải tầm 40, thế nhưng thân người thì chỉ bằng 1 đứa trẻ 14, 15 tuổi. Tay chân người đó thò ra từ 1 bộ quần áo sang trọng đúng kiểu quý tộc, đầu thì hói nhẵn thín. Mí mắt thì to cộ, mắt híp tới độ không ai biết rõ là ông ta đang mở hay nhắm. Vừa ngắm nhìn vị khách của mình, Kazakov thầm nghĩ người đàn ông kia có cái gì đó đầy quái dị. “Tên tôi là Meyer Tyurina. Rất hân hạnh được gặp quý ngài, thưa Kazakov-sama.” Người đàn ông tự xưng là Meyer Tyurina kia lịch thiệp cúi chào. Kazakov cũng thoải mái cúi đầu đáp lại. Một ngọn lửa cháy bừng đã được thắp lên sẵn trong lò sưởi của phòng khách, sưởi ấm cho cả căn phòng. Trên một chiếc bàn nhỏ bằng cẩm thạch, 2 chiếc ly bạc đựng đầy rượu vang đã được đặt sẵn trên đó. “Dù rằng nói thế này thì có phần thô lỗ, thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi được biết đến ngài. Ngay cả trong lá thư của Đức ngài Công tước Bydgauche cũng có viết khả tỉ mỉ về ngài. Xin mạn phép được hỏi nhờ vào đâu mà ngài lại quen biết với Đức ngài Công tước vậy?” Kazakov vẫn luôn quen nói thẳng như vậy. Không hề tỏ ra bị xúc phạm, Meyer chỉ khẽ mím môi. Xem ra đó là một nụ cười như tự chế giễu bản thân. “Kazakov-sama đây không biết cũng phải thôi. Nếu như truy theo gia phả thì tôi là một người họ hàng xa của Đức ngài Công tước Bydgauche; thế nhưng đó chỉ là trên danh nghĩa, ngoài ra thì tôi không có tước vị hay lãnh địa trong tay, ngay cả một vị trí danh dự trong Hoàng cung cũng không.” “Hmm. Vậy thì ngài có việc gì cần tới tôi?” Kazakov cau mày. Xem ra người này tới đây không phải là vì cần được bổ dụng. Nếu mà đã là vậy thì Ilda đã viết thư giới thiệu rõ ràng. Kazakov không tìa nào hiểu nổi Meyer định nói tới việc gì. “Đầu tiên, có việc này tôi muốn xác nhận lại, tuy nhiên...” Meyer rướn người về phía trước, cặp mắt xếch ngước lên nhìn Kazakov. “Trong bức thư của Đức ngài Công Tước viết không hề có một dòng nào nói về việc tôi mong muốn, hay là tôi tới gặp ngài để bàn bạc về việc gì ư?” Đó là 1 câu hỏi hết sức kỳ lạ. Trong khi Kazakov lắc đầu quầy quậy, Meyer chỉ thở dài ra chiều nhẹ nhõm. Như thể đang chuẩn bị tiết lộ 1 thứ gì đó hết sức quan trọng, người đàn ông kia hạ thấp giọng xuống mà nói. “Tôi muốn ngài chuẩn bị quân sĩ. Nếu đươc thì tầm 2.000 quân.” “Ô.” Kazakov chỉ thốt lên được như vậy. “Tôi chưa từng nghe thấy tin gì về việc có chiến trận ở gần đây. Vậy ngài định nhờ tôi việc gì?” “Tôi mong là ngài sẽ cứu lấy 1 người.” Vừa nghiêm trang nói, Meyer rời mắt khỏi Kazakov mà nhìn về ngọn lửa trong lò sưởi. “Ngài có biết 1 người ở Brune tên Tigrevurmud Vorn không?” “Tôi có nghe qua về người đó. Hiện tại người đó đang làm khách ở Leitmeritz, đúng không?” 1 người hùng trẻ tuổi đã cứu mạng Công chúa khỏi tay những kẻ phản loạn ác độc và chấm dứt cuộc nội chiến ở Brune. Kazakov được biết là như vậy. Meyer gật đầu. “Hiện tại người đó đang bị giữ lại ở Lebus.” Chung quy lại, những gì Meyer nói tiếp sau đó có thể tóm gọn lại như sau. Tigrevurmud Vorn nhận được 1 mật lệnh từ Vua Victor, vượt biển sang Vương quốc Asvarre. Chuyện xảy ra vào cuối mùa hè năm nay. Nghe đồn là Tigre đã hoàn thành nhiệm vụ vầ an toàn quay về Vương quốc, thế nhưng anh ta đã bị Elizavetta bắt giữ hòng mưu đồ chính trị, và bị đưa tới Lebus. “Vanadis xứ Lebus là 1 kẻ đầy tham vọng. Ả ta muốn tăng tầm ảnh hưởng của mình ở phương Bắc lên. May mắn là Vanadis xứ Osterode lại ốm yếu, không thể nào chống trả lại được; Legnica giờ này vẫn chưa có Vanadis mới. Ả ta tin chắc rằng đây chính là cơ hội của mình.” Kazakov chun mũi lại, nhưng vẫn giữ im lặng. Cho rằng Bá tước đang thúc giục, Meyer lại nói tiếp. “Cách đây không lâu, chẳng phải làVanadis xứ Lebus đã đánh bại Đức ngài Công tước Bydgauche? Cũng chính là lúc đấy. Đương nhiên là Vanadis đã điều binh sau khi nhận được lệnh từ hoàng gia, thế nhưng ả ta lại nhanh chóng hành động tựa như đã chờ sẵn từ lâu, thậm chí còn không thèm tới thương lượng với Đức ngài Công tước.” Meyer bình thản dối trá. Elizavetta đã cố thuyết phục Ilda, và cũng chính vì bị bỏ ngoài tai nên cô mới phải giao chiến. Tuy nhiên, Kazakov không hề hay biết điều đó. Dù im lặng, khuôn mặt của Kazakov dần đỏ bừng lên vì giận dữ. Tựa như không thèm để ý tới điều đó, Meyer vẫn tiếp tục dửng dưng nói tiếp. “Quay lại vấn đề. Rất ít người biết tới việc Tigrevurmud Vorn đang bị giam giữ ở Lebus. Nếu như việc này để lộ ra ngoài, quan hệ giữa Brune và Vương quốc chúng ta sẽ xấu đi trông thấy. Suy cho cùng thì chúng ta đã đày đọa anh hùng của họ vào nghịch cảnh như vậy. Do đó, Bệ hạ Victor đã quyết định giải quyết chuyện này trong bí mật.” “Bệ hạ ư...?” Kazakov cuối cùng cũng thốt lên. Meyer gật đầu đầy vẻ kịch cỡm. “Tôi được cử tới đây cũng là vì chuyện đó. Nếu như 1 kẻ như tôi có tới gặp Kazakov-sama thì cũng sẽ không có ai cho rằng đó là việc gì quan trọng. Đấy chẳng phải là cơ hội ngàn vàng sao?” Kazakov cảm thấy thuyết phục trước điều đó. Chính Kazakov cũng nghĩ như vậy trước cuộc gặp mặt với Meyer. “Đức ngài Công tước cũng hết sức tin tưởng vào Kazakov-sama. Ngài ấy nói rằng nếu phải nhờ cậy vào ai khi ngài vì lý do nào đó mà không thể ra trận được, người đó không ai khác ngoài chính Kazakov-sama, Bá tước xứ Polus.” Những lời nói đó đủ để làm ấm lòng bất cứ ai nghe thấy. Thế nhưng, Kazakov vẫn ra vẻ hoài nghi trước điều đấy. Mọi thứ vẫn còn quá mông lung. Y cần phải có 1 thông tin nào đó đáng tin cậy hơn. “Thế nhưng có chắc là Bá tước Vorn đang bị giam cầm không? Điều động 2.000 quân không phải là việc đơn giản gì. Thêm vào đó, nếu như đây mà là nhầm lẫm thì không phải là chuyện đùa đâu.” “Thay vì tin vào lời tôi, sao ngài không thử tự mình điều tra đi?” Meyer đáp lại và nói tiếp. “Ngài hãy thử xem liệu có phải là vừa mới có 1 người mới được bổ dụng vào trong Lâu đài Lebus hay không. Và nếu có, liệu có phải người đó có nét mặt rất giống với Tigrevurmud Vorn hay không.” “Bổ dụng?” “Vanadis xứ Lebus đã làm như vậy để thuyết phục những người khác. Đương nhiên, ả ta làm điều đó hòng không cho Bá tước Vorn chạy thoát.” Sau một hồi im lặng, Meyer chầm chậm nói tiếp. “Nếu như chúng ta giải cứu Bá tước Vorn thành công, Kazakov-sama chắc chắn sẽ trở thành người đứng đầu toàn bộ bờ cõi miền Bắc. Suy cho cùng thì nếu không tính tới tiểu tiết, Đức ngài Công tước Bydgauche vẫn còn bị cái vết nhơ điều binh kia.” Những lời của Meyer đều động tới lòng kiêu hãnh của Kazakov. Rằng y sẽ vượt qua Ilda và trở thành 1 kẻ với tầm ảnh hưởng mạnh mẽ ở phía Bắc Zhcted là một thứ gì đó Kazakov vẫn hằng thèm muốn. Không nghi ngờ gì nữa, một cơ hội như vậy mà lỡ để vuột mất thì không thể nào quay lại được. Dù là thế, nhưng Kazakov vẫn chưa hết dùng dằng. Y không tài nào quyết định ngay được. Vừa định mở miệng nói “để tôi suy nghĩ thêm”, Meyer đã nhanh miệng nói trước. “Nếu mà Kazakov-sama mà không điều binh thì cũng đành phải chịu thôi. Tôi sẽ đi tìm 1 người khác. Tuy nhiên, cả Bệ hạ lẫn Đức ngài Công tước chắc chắn đều sẽ thất vọng. Họ nói rằng nếu như là “Kazakov đẫm máu”, ngài ấy sẽ kiên cường giao chiến với Vanadis mà không hề sợ hãi.” Trước những lời nói đó của Meyer, lông mày của Kazakov dựng ngược lên. Đó là những lời mà y không thể nào phớt lờ đi được. “Tôi sẽ cảm thấy rất khó chịu nếu ngài nhầm tưởng là tôi lại sợ Vanadis. Được rồi, tôi sẽ cho điều tra xem Ngài Vorn có phải đang ở tại Lebus không. Một khi có được tin, tôi sẽ cho 2.000 binh lính hành quân tới Lebus ngay.” Vào lúc đó, Kazakov không hề nhận ra là Meyer đang hé miệng nở một nụ cười đầy nha hiểm trong tích tắc. Meyer kính cẩn cúi đầu xuonongs. “Nếu cần kíp, ngài được phép hạ sát cả Vanadis. Tôi được lệnh phải nói với ngài như vậy. Tới giờ phút này thì có nói về sức mạnh của 1 Vanadis cũng bằng thừa, nhưng xin ngài hãy cẩn trọng. Thêm vào đó, khó có ai mà biết Mắt Cầu Vồng còn gây ra đủ thứ tai họa gì nữa.” Meyer cố tình nhấn mạnh vào “Mắt Cầu Vồng”, tựa như muốn khuấy động những cảm xúc tiêu cực của Kazakov. Sau khi rời khỏi biệt thự của Kazakov, Meyer thở nhẹ 1 tiếng. Hắn ngân nga tựa như muốn nói rằng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. “1 kẻ nhỏ mọn. Chả là gì so với Thenardier, Faron và Badouin.” Meyer Tyurina là 1 cái tên giả. Ngay cả bức thư từ Công tước Bydgauche kia cũng là giả nốt. Tên thật của hắn ta là Ganelon. Maximilian Bennusa Ganelon. Cách đây vài ngày, Ganelon vẫn còn đang ở Osterode. Ở lại biệt thự của nữ Vanadis Valentina không tiện, y đã rời Osterode và tới đây với một mục tiêu trong đầu. “Cứ đà này, Kazakov sẽ hành động. Sau khi xong việc ở đây, liệu có nên quay về Brune không đây? Greast có vẻ cũng đang nung nấu vài thứ ở đó.” Ngước lên nhìn bầu trời xám xịt, Ganelon tự nhủ với bản thân. Hầu tước Greast là 1 người có thể được coi là thuộc hạ tin cẩn nhất của Ganelon. Khi Ganelon ẩn mình trong cuộc nội chiến năm trước, y còn mang cả Greast theo. Hiện tại, Greast cũng đang bí mật hoạt động ở miền Nam của Brune. “Cơ mà Vanadis xứ Osterode lại rắc rối hơn là mình tưởng.” Vừa đi, Ganelon vừa tự nói chuyện với bản thân. “Có nên giết luôn không đây?” Tuy nhiên, Ganelon chỉ lắc đầu và từ bỏ ý định đó. Dù không phải là vì có cảm tình hay quyến rũ, riêng việc vì tham vọng mà Valentina sẵn sàng nổi loạng thôi lại rất hợp với hắn ta. Y không định hành động cùng với cô ta. Thêm vào đó, y còn đang tính tới việc hạ gục Valentina không thương tiếc nếu dám cản đường. Thế nhưng, sau 1 thời gian xem xét, Ganelon cho rằng cứ để im như vậy một thời gian lại là hay. “Món nợ 1 năm ở đợ của ta, coi như là lần này ta trả luôn...” Vừa lẩm bẩm đầy ích kỷ như vậy, Ganelon bước dọc theo con phố dẫn tới thị trấn.
|